Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Lăm: Một Câu Nói Ngược Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15604)
Tắc thứ Mười Lăm: Một Câu Nói Ngược Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI LĂM

MỘT CÂU NÓI NGƯỢC CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Đao giết người,kiếm cứu người. Phong qui của người xưa, cốt yếu của đời nay. Thử nói xem, đao giết người là gì? Kiếm cứu người là gì? Thử nêu lên xem. Có ông tăng hỏi Vân Môn.

CỬ: “Không phải là tâm cơ trước mắt, cũng chẳng phải là sự việc trước mắt, lúc ấy thì như thế nào?” Vân Môn nói, “Một câu nói ngược.”

BÌNH: Ông tang này quả là một tay thông thạo cho nên mới biết hỏi như thế. Câu hỏi thoạt tiên có vẻ như là hỏi thêm, song thật ra là để giải bày chỗ hiểu biết của mình. Đó cũng gọi là câu hỏi có ẩn tàng mũi nhọn trong ấy. Nếu như không phải là Vân Môn, khó có ai biết phải đối xử như thế nào với ông tăng này. Song có khả năng như Vân Môn thì khi có câu hỏi đặt ra không thể không trả lời. Tại sao vậy? Vị thầy thành thạo thì giống như thể một tấm gương sáng trên giá. Nếu như có người Hồ[21] đi ngang thì có bóng người Hồ hiện trên gương , có người hán đi ngang thì có bóng người Hán hiện trên gương.

Cổ nhân nói, “ Nếu như muốn hiểu thấu, đừng nên lấy câuhỏi ra mà hỏi câu hỏi. Tại sao vậy? Bởi vì câh hỏi nằm trong câu trả lời và câu trả lời nằm trong câu hỏi. Các bậc thánh đâu từng có một vật gì cho người khác đâu? Làm gì mà có Thiền với Đạo cho các ông? Nếu như các ông không tạo nghiệp địa ngục thì sẽ không phải rước lấy quả địa ngục.Nếu như không tạo nhân thiên đàng thì sẽ không đạt được quả thiên đàng. Tất cả các nghiệp duyên đều là tự làm tự chịu. Cổ nhân đã nói rõ ràng với các ông, “Nếu luận việc này, thì không nằm ở ngôn cú. Nếu như hệ ở ngôn cú thì tam thừa mười hai phần giáo, há không phải đều là ngôn cú cả sao? Làm gì cần phảiTổ Sư từ Ấn Độ sang nữa?”

Trong tắc trên Vân Môn nói, “Một lời đúng.” Ở đây Vân Môn lại nói, “Một lời ngược.” Chỉ khác mỗi một chữ mà tại sao lại có thiên sai vạn biệt như thế? Thử nói xem, các rắc rối là ở chỗ nào?

Cho nên mới có câu nói, “ Pháp được thực hành theo pháp[22], Pháp tràng được kiến lập tùy theo chỗ.” “Không phải là tâm cơ trước mắt cũng chẳng phải là sự vật trước mắt, lúc ấy như thế nào?” Câu ấy chỉ đáng người ta gật đầu một cái mà thôi. Nếu như là người có mtắ, chẳng thể lừa được người ấy chút nào. Bởi vì câu hỏi hơi rắc rối cho nên câu trả lời cũng phải như thế. Kỳ thực Vân Môn đang cưỡi ngựa của kẻ trộm. Có người hiểu lầm nói rằng, “ Vốn dĩ là lời của chủ, song khách lại nói mất.” Cho nên Vân Môn mói nói, “ Một lời ngược”. Song đâu có gì là đúng.

Ông tăng kia hỏi rất hay, “ Không phải là tâm cơ trước mắt, cũng không phải là sự vật trước mắt,lúc ấy như thế nào?” Tại sao Vân Môn không trả lời gì khác mà chỉ nói, “ Một lời ngược.” Vân Môn trong một lúc đập tan hết ( kiến chấp của) ông ttăng kia. Tuy nhiên đến chỗ này rồi mà còn nói, “ Một lời ngược,” thì giống y như thể là khoét một vết thương trên da thịt lành. Tại sao vậy? “Một khi ngôn ngữ khởi lên là lập tức có nhiều dị kiến.” Nếu như khôngngôn ngữ, thì chiếc cột trụ này chiếc đèn giấy kia từng bao giờ có ngôn ngữ? Các ông đã hiểu chưa? Nếu đến chỗ này rồi mà vẫn chưa hiểu, các ông cần phải xoay chuyển lắm mới có thể hiểu được cái cốt yếu của vấn đề này.

TỤNG:

Một lời ngược,

phân từng tiết.

Đồng tử đồng sinh cùng quyết đoán,

Tám vạn bốn ngàn phải lông phượng?

Ba mươi ba người vào hang cọp,

Đặc biệt thật!

Bóng trăng trong dòng nước chảy xiết.

BÌNH: Tuyết Đậu quả là một tay thành thạo. Dưới câu thứ nhất lại nói thêm “phân từng tiết.” Rõ ràng buông bỏ hết để nắm tay cùng đi với Vân Môn[23]. Tuyết Đậu có khả năng buông bỏ tất cả, thầy ta dám vào bùn vào nước với các ông, dám sống dám chết với các ông. Cho nên Tuyết Đậu mới tụng như thế. Kỳ thực thầy ta chỉ muốn cởi bỏ các dính dấp, nhổ đinh bạt chốt cho các ông mà thôi.

Ngày nay thiên hạ lại bị vướng vào ngân ngữ mà sinh ra kiến chấp. Như Nham Đầu nói, “Tuy Tuyết Phong cùng sinh trong một dòng với ta, song lại không chết cùng một dòng với ta. ”Nếu như Vân Môn không phải là người nhìn thấu tất cả mọi tâm cơ làm thế nào thầy ta có thể đồng sinh đồng tử với các ông được? Tại sao thầy ta có khả năng như thế? Bởi vì Vân Môn đã thoát ra khỏi tất cả các lậu pháp như được mất, thị phi rồi. Cho nên Động Sơn nói, “ Nếu như muốn phân biện được cái người tu đạo hướng thượng kia là chân hay ngụy thì có ba loại lậu pháp (làm tiêu chuẩn): tình lậu, kiến lậu và ngữ lậu. Nếu như còn kiến lậu thì tâm cơ không rời chỗ cổ định được và người ta bị chìm vào biển độc. Nếu như còn tình lậu thì trí thức dao động và chỗ kiến giải của người ta rơi vào thiên chấp. Nếu như còn ngữ lậu thì người ta đánh mất cái căn bản của diệu thể, tâm cơ không phân biệt được thủy chung. Các ông phải tự biết lấy ba lậu pháp này.

Ngoài ra cũng có ba cái huyền diệu: huyền diệu bên trong thể, huyền diệu trong câu nói, và huyền diệu trong huyền diệu. Cổ nhân đến chổ này rồi, kể như đạt được toàn cơ đại dụng. Gặp sinh đồng sinh với các ông, gặp tử đồng tử với các ông. Họ (cổ nhân) nằm trong miệng hổ, buông thõng tay chân, ngàn dặm vạn dặm tùy theo sự dẫn dắt của các ông. Tại sao vậy? Các ông phải đối lại với họ một điều này thì mới được.

“Tám vạm bốn ngàn phải lông phượng?” Đó là tám vạn bốn ngàn thánh chúng trên núi Linh Thứu. “Không phải là long phượng”: sách Nam Sử nói rằng đời nhà Lưu Tống (420-479) có Hứa Siêu-tông là người Dương Hạ thuộc Trần quận là con của Hứa Phượng vốn là người bác học, văn tài xuất chúng. Trong triều đình không có ai so sánh được với ông, người đường thời cho là nhân tài độc đáo nhất. Giỏi làm văn cho nên làm chức thượng thị ở Vương Phủ. Lúc Vương Mẫu là Ân Thục mất. Siêu-Tông làm bài văn viếng dâng lên. Vũ Đế (trị vì 454-464) đọc bài văn, tán thưởng nồng nhiệt rằng, “ Siêu-Tông quả thật có lông phượng.” Có bài thơ cổ như sau,Triều bãi khói mây đầy tay áo, thơ thành châu ngọc trong nét bút.Muốn biết lời chiếu vua hay đẹp, hiện giờ trên hồ có lông phượng.” Ngày xưa trên hội Linh sơn, tứ chúng [24] tụ họp đông đảo, đức Thế Tôn đưa cành hoa lên, chỉ độc có ngài Ca Diếp khẽ động nét mặt mĩm cười, tất cả những người khác không hiểu đó là tông chỉ gì. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “ Tám vạn bốn ngàn phải lông phượng, ba mươi ba người vào hang cọp.”

A Nan hỏi Ca Diếp, “Đức Thế Tôn ngoài việc truyền lại Kim lam cà sa, có truyền riêng pháp gì nữa không?” Ca Diếp gọi, “A Nan!” A Nan đáp lại. Ca Diếp nói, “ Gỡ cột treo phán trước cổng chùa xuống.” Sau đó sự truyền thừa từ vị tổ này cho vị tổ khác, kể cả Ấn Độ lẫn Trung Hoa gồm có ba mươi vị. Tất cả đều có khả năng vào hang cọp. Cổ nhân nói, “không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?” Vân Môn chính là loại người này, sẵn sàng đồng sinh đồng tử với người khác.Bậc thầy trong Thiền tông muốn giúp người khác, cần phải được như vậy. Ngồi trên ghế của bậc thầy, giúp cho các không đập vỡ được (các kiến chấp) và dám vuốt râu cọp.Phải đạt đến mức độ này thì mới đủ khả năng làm thầy. Phải có đầy đủ bảy điều kiện nơi mình thì mới có thể đồng sinh đồng tử với người khác được. Cái gì cao thì đè xuống, những kẻ thấp thì nâng lên, những kẻ thiếu thì cho thêm. Những kẻ ở trên đỉnh cao thì cứu xuống nơi đồng hoang, còn những kẻ lạc nơi đồng hoang thì cứu lên đỉnh cao. “Nếu như các ông vào vãc dầu lò than, ta cũng vào vạc dầu lò than.” Kỳ thực chẳng có gì cả, chỉ vì muốn gỡ những cái dính dấp, nhổ đinh bạt chốt, tháo cương gỡ yên cho các ông. Bình Điền hòa thượng có một bài tụng hết sức tuyệt: “Linh quang không mờ, kế nay vạn cổ. Vào tông môn này, đừng nuôi kiến chấp.” Đặc biệt thật! Bóng trăng trong dòng nước chảy xiết.” Quả là có cách xuất thân, cũng như có tâm cơ để cứu người. Tuyết Đậu nêu lên, để người khác tự giác ngộ lấy sinh cơ của mình. Đừng có theo lời nói của người khác, nếu như các ông theo lời nói của người khác thì đúng là bóng trăng trong dòng nước chảy xiết. Các ông làm thế nào để đạt được bình an đây? Buông bỏ một lần đi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14771)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11835)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12770)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10352)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12071)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15302)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10548)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12482)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16437)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14320)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11797)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14815)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12038)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16863)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12741)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11350)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52164)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15475)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13975)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13189)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12792)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13227)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17922)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12461)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12658)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54215)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14435)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9937)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13828)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57996)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14512)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20155)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13797)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15413)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17501)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13323)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11939)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13496)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14674)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12498)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12159)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12072)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13296)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12548)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13670)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13335)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25613)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12184)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14564)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11868)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42083)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28355)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38821)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14730)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12709)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant