Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Mốt: Ma Cốc Chống Gậy

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15728)
Tắc thứ Ba Mươi Mốt: Ma Cốc Chống Gậy

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI MỐT

MA CÓC CHỐNG GẬY

 

THÙY: Động thì ảnh hiện, giác thì băng sinh. Nếu như không động không giác, khó mà khỏi rơi vào hang chồn hoang. Hiểu thấu được, đủ lòng tin, không tơ hào chướng ngại, như rồng gặp nước, như cọp dựa núi. Buông bỏ, gạch ngói tỏa sáng; nắm giữ, vàng ròng mất mầu. Công án của cổ nhân, khó tránh vòng vo. Thử nói xem, họ bình luận việc gì vậy?

CỬ: Ma Cốc chống gậy đến gặp Chương Kính. Đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gậy đứng sừng sững đó. Chương Kính nói, “Đúng, đúng.” (Tuyết Đậu phê bình, “Sai!”) Ma Cốc lại đến gặp Nam Tuyền.Lại cũng đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gậy đứng sừng sững đó. Nam Tuyền nói, “Không đúng, không đúng.” Nam Tuyền nói, “Chương Kính thì đúng, ông mới là không đúng. Đây chính là cái bị sức gió chuyển động; cuối cùng thế nào cũng bại hoại.”

BÌNH: Cổ nhân hành cước khắp chốn tùng lâm, duy có việc này trong tâm niệm: chỉ muốn phân biện xem lão hòa thượng ngồi trên giường khắc kia có mắt hay không? Cổ nhân thường thì nếu trong một lời mà khế hợp thì ở lại, còn nếu không khế hợp thì lại đi. Nhìn xem Ma Cốc đến gặp Chương Kính. Đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gập đứng sừng sững đó. Chương Kính nói, “Đúng đúng.” (Muốn sử dụng được) thứ đao giết người kiếm cứu người này, cần phải là một chuyên gia mới được.

Tuyết Đậu nói, “Sai!” Như thế là rơi vào cả hai bên, song nếu các ông dựa vào hai bên mà hiểu, các ông không thấy được ý của Tuyết Đậu. Ma Cốc đứng sừng sững đó. Thử nói xem, thầy ta làm gì vậy? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “Sai!” Ma Cốc sai ở chỗ nào? Chương Kính nói “Đúng” là đúng ở chỗ nào? Tuyết Đậu như thể ngồi đó mà đọc lời phán xét. Ma Cốc ôm chữ “đúng” này mà đến gặp Nam Tuyền. Cũng y như trước đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gậy đứng sững đó. Nam Tuyền nói, “ Không đúng, không đúng.” ( Muốn sử dụng được) đao giết người kiếm cứu người, phải là bậc thầy trong tông môn mới được. Tuyết Đậu nói, “ Sai!” Chương Kính nói, “Đúng, đúng.” Nam Tuyền nói, “ Không đúng, không đúng”. Như thế là giống hay là khác nhau? Người thứ nhất nói, “Đúng.” Tại sao là sai. Người thứ nhì nói, “Không đúng.” Tại sao cũng sai luôn? Nếu như tìm chỗ hiểu trong câu nói của Chương Kính, thì tự cứu mình cũng chẳng còn được nữa. Nếu như dựa vào câu nói của Nam Tuyền mà hiểu được thì có thể cùng làm Thầy với Phật và Tổ. Tuy vậy đi nữa, các nạp tăng phải tự mình tầm cứu mới được, chứ đừng dựa vào lời nói của người khác.

Câu hỏi của Ma Cốc là một, tại sao người thì nói “đúng”, người thì nói “không đúng”? Nếu là người thành thạo thông suốt, đã đạt được đại giải thoát, ắt phải có cách sinh nhai khác. Nếu như là người chưa quen được cả cơ lẫn cảnh, nhất định thế nào cũng bị vướng vào hai phía này. Nếu như muốn biện rõ cổ kim, làm líu lưỡi tất cả mọi người trong thiên hạ, cần phải nắm được hai cái “sai” này thì mới được. Cho đến cuối, Tuyết Đậu chung qui cũng chỉ tụng hai cái” sai” này. Tuyết Đậu muốn nêu lên cái chỗ sống động, chonên mới nói như thế. Nếu các ông là những kẻ dưới da có máu, đương nhiên là không dựa vào ngôn cú mà hiểu, không nắm vào cái cột buộc lừa mà chấp làm đạo lý. Có người nói rằng Tuyết Đậu thay cho Ma Cốc mà nói hai chữ “ sai” này. Song nói như thế có gì là đúng? Đâu có biết rằng khi cổ nhân phê bình đã khóa chặt cửa ngõ, phía này cũng đúng mà phía kia cũng đúng. Song rốt cuộc chẳng thuộc về phía nào cả. Khánh Tàng Chủ nói, “Chống gậy bước quanh giường Thiền, đúng với không đúng đều sai. Kỳ thực cũng không phải là ở đây.”

Há không biết chuyện Vĩnh Gia đến Tào Khê gặp Lục Tổ, đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gậy đứng sừng sững đó. Lục Tổ nói, “Đại sa môn phải có ba ngàn uy nghi, tám vạn tế hành. Đại đức từ đâu đến sinh đại ngã mạn như thế để làm gì?” Tại sao Lục Tổ lại nói là Vĩnh Gia sinh đại ngã mạn? Thầy ta đâu có nói “đúng” hay “không đúng”. “Đúng” với “không đúng” chỉ là cái cột buộc lừa mà thôi. Chỉ có Tuyết Đậu phát biểu ra hai chữ “sai” là còn có chút gì.

Ma Cốc nói, “Chương Kính nó “đúng”, tại sao hòa thượng lại nói “không đúng?” Lão hán này không tiếc lông mày, lậu đậu không ít. Nam Tuyền nói, “Chương Kính thì đúng, ông mới là không đúng.” Nam Tuyền có thể nói là thấy thỏ thả ưng. Khánh Tàng Chủ nói, “Nam Tuyền tha thiết quá đáng nhẽ có thể qua loa mà chấm dứt ở chỗ “không đúng”, lại vạch ra chỗ lầm lẫn của người kia mà nói rằng, “Đây chính là cái bị sức gió chuyển động, cuối cùng thế nào cũng bại hoại.” Kinh Viên Giác nói, “ Nay thân tôi đây, tứ đại hòa hợp. Những cấu sắc gọi là tóc, lông , móng, răng, da thịt, gân, cốt, tủy , não rồi cũng đều trở về với cát bụi.Nước miếng , nước mũi,mủ, máu đều trở về với nước. Hơi thở ấm trở về với lửa, động tác trở về với gió. Lúc tứ đại chia lìa, cái thân giả tạm này biết tìm ở chỗ nào?” Lúc Ma Cốc chống gậy đi quanh giường Thiền đã là bị sức gió chuyển động cuối cùng thế nào cũng bại hoại. Thử nói xem, rốt cuộc việc phát minh tâm tông là ở chỗ nào? Đến chỗ này rồi phải là một ngươì do thép sắt đúc thành mới được.

Há không nghe chuyện Trương Chuyết Tú Tài đến tham kiến Tây đường Tạng Thiên Sư, rồi hỏi rằng, “Sơn hà đại địa là hữu hay vô? Tam thế chư Phật là hữu hay vô? Tây Đường Tạng nói, “ Hữu.” Trương Chuyết Tú Tài nói, “ Sai” Tây đường Tạng nói, “Tiền bối từng tham kiến những ai rồi?” Trương Chuyết Tú Tài nói, “Tham kiến Kính Sơn Hòa Thượng, phàm kẻ hèn này hỏi bất cứ gì Kính Sơn cũng nói vô cả.” Tây Đường Tạng nói, “Tiền bối có quyến thuộc gì không?” Trương Chuyết nói, “ Có một vợ quê mùa, hai đứa con đần độn.” Tây đường Tạng hỏi, “Kính Sơn có gia quyến gì không?” Trương Chuyết nói, “Kính Sơn là bậc cổ Phật thầy đừng phỉ bang ngài có được không?” Tây Đường Tạng nói, “Đợi khi nào tiền bối được như Kính Sơn rồi hãy nói tất cả đều là vô.” Trương Chuyết đành cúi đầu khuất phục. Phàm các bậc tông sư thành thạo lúc nào cũng muốn cởi bỏ những cái dính dấp trói buộc, nhổ cọc gỡ chốt cho người khác. Họ không thể chỉ nắm vào một phía, mà phải biết lách bên phải xoay bên trái, lách bên trái xoay bên phải.

Xem lúc Ngưỡng Sơn đến Trung Ấp để cảm tạ Trung Ấp đã truyền giới. Trung Ấp thấy Ngưỡng Sơn tới bèn vỗ lên giường Thiền và nói, “Hòa thượng”. Ngưỡng Sơn bèn đứng qua phía đông rồi lại đứng qua phía tây, rồi lại đứng vào giữa. Lúc cảm tạ xong lại lui về phía sau mà đứng. Trung Ấp nói, “Ông đắc tam muội ấy ở đâu vậy?” Ngưỡng Sơn nói, “Đắc từ Tào Khê ấn.” Trung Ấp nói, “Ông thử nói xem Tào Khê dùng tam muội này để tiếp ai?” Ngưỡng Sơn nói, “ Tiếp Nhất Túc Giác.” [1] Rồi Ngưỡng Sơn lại hỏi, “ Hòa thượng đắc tam muội này ở đâu vậy? Trung Ấp nói, “Ta đắc tam muội này từ Mã Tổ.” Lối nói chuyện như vậy, phải chăng là của những người nêu một hiểu ba, thấy gốc theo ngọn?

Long Nha dạy chúng rằng, “ Phàm những người tham học, phải thấu qua Tổ Phật thì mới được. Tân Phong Hòa Thượng nói, “Xem ngôn giáo của Tổ Phật như oan gia, lúc ấy mới có chỗ để tham học.” Nếu như không thấu qua được thì chỉ bị Tổ Phật lừa mà thôi.” Lúc ấy có ông tăng hỏi, “Tổ Phật mà còn có tâm lừa thiên hạ sao?” Long Nha nói, “Ông thử nói xem sông với hồ có tâm làm trở ngại thiên hạ không?” Rồi lại nói tiếp, “Tuy rằng sông hồ không có tâm làm trở ngại thiên hạ, chỉ tại vì thiên hạ không qua sông được. Cho nên sông với hồ đâm ra trở thành chướng ngại.Không thể nói rằng sông với hồ không trở ngại thiên hạ. Tổ Phật tuy không có tâm lừa thiên hạ, song chỉ vì thiên hạ không thấu qua được, cho nên Tổ Phật đâm ra thành lừa thiên hạ. Không thể nói là Tổ Phật không lừa thiên hạ. Nếu như thấu qua được Tổ Phật, kẻ ấy vượt qua Tổ Phật. Song cần phải thể hội được ý của Tổ Phật thì mới ngang hàng với những bậc cổ nhân hướng thượng được.Nếu như chưa thấu được, thì dù có học Phật học Tổ đi nữa, vạn kiếp cũng chẳng có khi nào đắc được.” Ông tăng lại hỏi, “ Phải như thế nào thì mới không bị Tổ Phật lừa?” Long Nha nói, “Ông phải tự ngộ lấy mới được.” Đến chỗ này rồi cần phải như thế. Tại sao vậy? Vì người , thì phải vì cho trót; giết người thì phải thấy máu. Nam Tuyền, Tuyết Đậu là những người như thế, cho nên mới dám nêu lên mà chơi.

TỤNG

Đây sai kia sai,

Kỵ nhất đừng lấy.

Bốn bề sóng yên,

Trăm sông triều xuống.

Cổ sách phong cao thập nhị môn,

Mỗi cửa có đường trống sơ xác.

Không sơ xác,

Chuyên gia phải kiếm thuốc không bệnh.

BÌNH: Tụng này giống công án Đức Sơn gặp Qui Sơn. Trước tiên đem công án ra bình thêm hai chuyển ngữ rồi xâu thành một chuỗi , sau đó mới tụng ra. “Đây sai kia sai, kỵ nhất đừng lấy.” Ý Tuyết Đậu là: ở đây một cái sai, ở kia một cái sai, kỵ nhất là đừng lấy nó đi. Lấy đi là sai. Phải đặt hai cái sai như vậy thì mới thấy được rằng, “ Bốn bề sóng yêu, trăm sông triều xuống.” Gió mới trong trăng mới sáng làm sao! Nếu như các ông hiểu được hai cái “sai” này, thì chẳng còn có sự việc gì nữa: núi là núi sông là sông, cái dài tự dài, cái ngắn tự ngắn, năm ngày một trận gió, mười ngày một cơn mưa. Cho nên mới có câu nói, "Bốn bề sóng yên, trăm sông triều xuống.”

Đoạn cuối tụng Ma Cốc chống gậy rằng, “ Cổ sách phong cao thập nhị môn.” Cổ nhân dùng roi làm gậy, các nạp tăng thì dùng tích trượng làm gậy. Trên Dao Trì của Tây Vương Mẫu có mười hai cửa đỏ. “Cổ sách” có nghĩa là vậy. Gió trên đầu gậy cao hơn mười cửa đỏ. Nơi các thiên tửĐế Thích ở mỗi chỗ cũng đều có mười hai cửa đỏ. Nếu như các ông hiểu được hai cái “sai” này, thì đầu gậy phát ra ánh sang, ngay cả cổ sách cũng không làm gì được. Cổ nhân nói, “Nếu hiểu được cây gậy, cả đời tham học của ông kể như xong.” Lại cũng nói, “Không phải chỉ là bầy vẽ bề ngoài vô sự, mà nó giống như dấu vết cây bảo trượng của Như Lai.” Nó cũng thuộc về loại đó. Đến chỗ này rồi, thất điên bát đảo, trong mỗi lúc đạt được đại tự tại.

“Mỗi cửa có đường trống sơ xác.” Tuy có con đường, song lại trống không sơ xác. Đến chỗ này Tuyết Đậu tự cảm thấy lậu đậu, cho nên mời đả phá cho các ông. Song dù là như thế, vẫn có chỗ không sơ xác. Dù cho là tay chuyên gia đi nữa, lúc không có bệnh cũng nên tìm chút thuốc mà uống trước mới được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15299)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10542)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12478)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11791)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14813)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16859)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11591)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12065)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52146)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13971)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12790)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13225)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12455)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54214)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14433)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57983)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14507)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20147)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13794)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15408)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17498)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11936)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13493)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14673)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25603)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11866)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28352)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38812)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12703)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant