Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy Mươi Lăm: Ô Cữu Hỏi Pháp Đạo

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15331)
Tắc thứ Bảy Mươi Lăm: Ô Cữu Hỏi Pháp Đạo

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 8

TẮC THỨ BẢY MƯƠI LĂM

Ô CỮU HỎI PHÁP ĐẠO

 

THÙY: Linh Phong bảo kiếm, thường lộ hiện tiền. Có thể giết người, có thể cứu người. Tại đó tại đây, cùng đắc cùng thất. Nếu muốn cầm lên, cứ việc cầm lên. Nếu muốn khai triển, cứ việc khai triển. Thử nói xem, lúc không rơi vào tân chủ, không vướng vào hồi hỗ thì như thế nào/ Thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng từ chúng hội của Định Châu hòa thượng đến gặp Ô Cữu. Ô Cữu hỏi, “Pháp đạo của Định Châu có giống ở đây không?” Ông tăng nói, “Không khác.” Ô Cữu nói, “Nếu không khác thì ông nên trở về đó đi.” Nói xong đánh ông tăng. Ông tăng nói, “Đầu gậy có mắt, thầy không được bừa bãi đánh người như thế.” Ô Cữu nói, “Hôm nay ta đánh một người.” Nói xong bèn đánh ba lần. Ông tăng bèn bỏ ra.

Ô Cữu nói, “Gậy oan lại có kẻ ăn.” Ông tăng quay lại nói, “Làm sao được bây giờ khi mà cán ở trong tay hòa thượng?” Ô Cữu nói, “Nếu như thầy muốn, sư núi tôi xin trao lại cho thầy.” Ông tăng bước tới giật gậy trong tay Ô Cữu rồi đánh cho Ô Cữu ba lần. Ô Cữu nói, “Gậy oan, gậy oan!” Ông tăng nói, “Có kẻ đang chịu!” Ô Cữu nói, “Ta đánh gã này một cách bừa bãi.” Ông tăng bèn cúi lậy. Ô Cữu nói, “Ông chỉ như thế mà thiô.” Ông tăng cười lớn rồi bỏ ra. Ô Cữu nói, “Chỉ như thế mà thôi, chỉ như thế mà thôi”.

BÌNH: Có ông tăng từ chúng hội của Định Châu hòa thượng đến gặp Ô Cữu. Ô Cữu cũng là bậc chuyên gia. Nếu như các ông hiểu được rằng ở chỗ này có một chỗ ra một chỗ vào cho hai người này thì ngàn vạn cũng chỉ là một mà thôi. Làm chủ cũng thế mà làm khách cũng thế, rốt cuộc hai người hợp thành một nhà để cùng khám phá vấn đề. Dù làm chủ hay làm khách, hỏi hay là đáp, hai người vốn vẫn là các chuyên gia.

Nhìn xem Ô Cữu hỏi ông tăng kia rằng, “Pháp đạo của Định Châu có giống ở đây không?” Ông tăng lập tức nói, “Không khác.” Lúc ấy nếu như không phải là Ô Cữu hẳn đã chẳng ai làm gì được ông tăng kia. Ô Cữu nói, “Nếu không khác thì ông nên trở về đó đi.” Rồi đánh ông tăng. Ai dè ông tăng kia là một chuyên gia cho nên bèn nói, “Đậu gậy có mắt thầy không được đánh người bừa bãi như thế.” Ô Cữu thủy chung vẫn thi hành lệnh cho nên nói, “Hôm nay ta đánh một người.” Rồi đánh ông tăng thêm ba lần nữa. Ông tăng bèn bỏ ra. Nhìn xem hai người họ xoay chuyển một cách hết sức trơn tru, vì họ vốn là những chuyên gia. Nếu như muốn hiểu việc này cần phải biết phân biệt trắng đen lỗi phải. Tuy rằng ông tăng kia bỏ ra song công án vẫn chưa dứt.

Ô Cữu thủy chung muốn thử thách thực chất của ông tăng kia để xem ông ta như thế nào. Song ông tăng kia lại chống đỡ cửa nẻo cho nên Ô Cữu vẫn chưa thấy được ông ta. Ô Cữu lại nói, “Gậy oan té ra lại có người ăn.” Ông tăng kia muốn xoay chuyển thổ lộ, song lại không tranh với Ô Cữu mà lại chỉ nhẹ nhàng xoay chuyển nói, “Làm sao được bây giờ khi mà cán ở trong tay hòa thượng?” Ô Cữu là bậc tông sư có mắt trên trán, dám nằm ngang trước miệng cọp cho nên nói, “ Nếu như thầy muốn, sư núi tôi xin trao lại cho thầy.”

Ông tăng này là một tay có đạo bùa dưới nách, đúng như lời nói, “thấy nghĩa không phải là vô dụng.” Ông tăng bèn không chần chừ gì nữa bước ngay tới giật phắt gậy trong tay Ô Cữu rồi đánh thầy ta ba lần. Ô Cữu nói, “Gậy oan, gậy oan!” Thử nói xem ý thầy ta muốn nói gì? Lúc đầu Ô Cữu nói, “Gậy oan té ra lại có người ăn.” Song lúc bị ông tăng kia đánh cho thì lại nói, “Gậy oan, gậy oan!” Lúc ông tăng kia nói, “Có kẻ đang chịu.” Ô Cữu lại nói, “ta đánh gã này một cách bừa bãi.” Lúc đầu Ô Cữu nói rằng mình đánh oan một người. Sau đó lúc chính mình bị ăn gậy, tại sao Ô Cữu cũng lại nói, “Ta đánh gã này một cách bừa bãi.” Lúc ấy nếu như không phải là ông tăng này vốn cao cường như thế, hẳn cũng chẳng ai làm gì được Ô Cữu.

Rồi ông tăng cúi lậy. Cái lậy ấy rất là độc, chẳng phải là hảo tâm. Nếu như không phải là Ô Cữu thì đã chẳng nhìn ra được ông tăng kia rồi. Ô Cữu nói, “Thầy chỉ thế mà thôi.” Ông tăng kia cười lớn rồi bỏ ra. Ô Cữu nói, “Chỉ như thế mà thôi, chỉ như thế mà thôi.”

Nhìn xem các chuyên gia gặp nhau, thủy chung lúc nào cũng chủ khách phân minh. Dù đoạn hố vẫn có thể tiếp tục. Kỳ thực đây cũng chỉ là cái gọi là “ hỗ hoán chi cơ”. Song đến chỗ này rồi họ lại cũng chẳng nói là có chỗ nào để mà hỗ hoán. Bởi vì các bậc cổ nhân này vượt trên tình trần ý tưởng, cho nên chẳng người nào trong họ đề cập đến đắc thất cả. Tuy chỉ là một cuộc đối thoại, song cả hai người họ mới sống động làm sao, cả hai đều có kim chỉ của huyết mạch (Thiền). Nếu như các ông có thể nhờ công án này mà thấy được, thì các ông có thể suốt ngày đêm lúc nào cũng sáng tỏ cả. Lúc ông tăng bước ra, là lúc cả hai đều buông bỏ. Sau đó là lúc cả hai đều thu vào. Đó gọi là “hỗ hoán.” Tuyết Đậu tụng như vầy đây:

TỤNG

Gọi thì dễ,

Đuổi mới khó.

Hỗ hoán cơ phong nhìn kỹ xem,

Kiếp thạch kiên cố vẫn bị toại.

Đứng dưới chỗ sâu biển phải cạn,

Lão Ô Cữu lão Ô Cữu.

Bao nhiêu loại?

Trao cán cho người quá vô đoan.

BÌNH: ”Gọi thì dễ, đuổi mới khó.” Đều là rơi vào cỏ. Tuyết Đậu từ bi rất mức thường nói, “Gọi rắn dễ, đuổi rắn khó.” Bây giờ nếu dùng một trái bầu rỗng thổi vào đó mà gọi rắn thì dễ, song lúc muốn đuổi rắn đi mới là khó. Cũng giống như trao gậy cho người khác thì dễ, song muốn đoạt lại rồi đuổi người ta đi thì lại khó. Cần phải có khả năng đặc biệt mới có thể đuổi người ta đi được.

Ô Cữu là một tay chuyên gia vừa có khả năng gọi rắn mà cũng vừa có khả năng đuổi rắn. Ông tăng kia cũng chẳng ngủ bao giờ. Lúc Ô Cữu hỏi, “Pháp đạo của Định Châu có giống ở đây hay không?” Tức là gọi ông ta. Lúc ông tăng nói, “Đầu gậy có mắt, hòa thượng không được đánh người bừa bãi như thế.” Việc gọi người lại được chuyển qua cho ông tăng. Lúc Ô Cữu nói, “Nếu như thầy muốn, sư núi tôi xin trao lại cho thầy.” Rồi thì ông tăng bước tới, đoạt gậy trong tay Ô Cữu và đánh cho thầy ta ba lần, đây là lúc ông tăng đuổi Ô Cữu đi. Còn việc ông tăng cười lớn bỏ ra và Ô Cữu nói, “Chỉ như thế mà thôi,” đây rõ rệt là đuổi được ông ta đi.

Xem coi hai người họ cơ phong hỗ hoán, đưa đẩy qua lại, hợp thành một thể. Từ đầu đến cuối lúc nào cũng phân minh chủ khách. Có lúc chủ đóng vai khách, có lúc khách đóng vai chủ. Tuyết Đậu cũng tán than không kịp. Cho nên thầy ta mới nói về “hỗ hoán chi cơ” để cho các ông quan sát cặn kẻ. “Kiếp thạch kiên cố vẫn bị hoại.” Kiếp thạch này vuông bốn mươi dặm. Cứ mỗi trăm năm mới có một thiên nhân xuống lấy tay áo quẹt vào đá một cái rồi bỏ đi. Một trăm năm sau lại đến quẹt tay áo vào đá như thế, cho nên đến khi đá mòn hết thì là một kiếp, gọi là “ một kiếp của tay áo nhẹ quẹt đá.” Tuyết Đậu nói, “ Kiếp thạch kiên cố vẫn bị hoại.” Đá tuy kiên cố mà vẫn bị mòn hết đi. Song cơ phong của hai người này thì thiên cổ vạn cổ vẫn cô cùng tận.

“Đứng dưới chỗ sâu biển phải cạn.” Dù cho là đại dương với sóng cả cuốn cao tận trời, mà nếu như hai người này đứng vào trong ấy, đại dương vẫn cứ phải cạn. Đến chỗ này Tuyết Đậu lập tức tụng xong. Cuối cùng Tuyết Đậu lại nói, “Lão Ô Cữu, lão Cơ Cữu! Bao nhiêu loại?” Hoặc nắm hoặc buông, hoặc sát hoặc hoạt, rốt cuộc là bao nhiêu loại? “Trao cán cho người quá vô đoan”. Cây gậy này tam thế chư Phật cũng dùng, lịch đại tổ sư cũng dùng, các tông sư cũng dùng để mà nhổ đinh bạt chốt cởi buộc gỡ rối cho thiên hạ. Tại sao lại có thể dễ dàng đi trai cho người khác như thế? Ý Tuyết Đậu muốn nói là chỉ nên tự mình dùng nó mà thôi. May mà lúc ấy ông tăng kia cũng bày tỏ với thầy ta, nếu như ông ta gây sấm sét trên đất bằng, cũng nên nhìn xem Ô Cữu đối phó như thế nào. Lúc Ô Cữu trao cán (gậy) cho ông tăng kia, phải chăng là quá vô đoan?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15299)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10542)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12478)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11791)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14813)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16859)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11591)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12065)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52146)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15472)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13971)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12790)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13225)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12455)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54214)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14433)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57984)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14507)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20147)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13794)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15408)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17498)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11936)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13493)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14673)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25603)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11866)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28352)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38812)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12704)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant