Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bốn Mươi Sáu: Tiếng Mưa Rơi Của Kính Thanh

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16022)
Tắc thứ Bốn Mươi Sáu: Tiếng Mưa Rơi Của Kính Thanh

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 5

TẮC THỨ BỐN MƯƠI SÁU

TIẾNG MƯA RƠI CỦA KÍNH THANH

 

THÙY: Một trùy bèn siêu cả phàm thánh. Một lời có thể cởi trói buộc gỡ dính dấp. Như đi trên băng mỏng chạy trên lưỡi kiếm, ngồi trong đống thanh sắc, đi bên trên thanh sắc. Tung hoành điệu dụng tạm gác qua một bên, đi trong một sát na thì thì như thế nào? Thử nêu lên xem.

CỬ:Kính Thanh hỏi ông tăng, “Ngoài cửa có tiếng gì vậy?” Ông tăng nói, “Tiếng mưa rơi.” Kính Thanh nói, “Chúng sinh điên đảo, mê mờ rồi đuổi theo sự vật.” Ông tăng hỏi, “Thế hòa thượng thì sao?” Kính Thanh nói, “Ta suýt nữa là không mê mờ chính mình rồi.” Ông tăng hỏi, “Suýt nữa là không mê mờ chính mình có nghĩa là gì?” Kính Thanh nói, “Xuất thân thì còn dễ, thoát thể mới là khó.”

BÌNH:Ngay chỗ này đây cũng cần phải hiểu. Cổ nhân ngỏ lời dạy, một cơ một cảnh đều là để tiếp dẫn người khác. Một hôm Kính Thanh hỏi ông tăng, “ Ngoài cửa có tiếng gì vậy?” Ông tăng nói, “ Tiếng mưa rơi.” Kính Thanh nói, “ Chúng sinh điên đảo, mê mờ rồi đuổi theo sự vật.” Rồi lại hỏi, “ Ngoài cửa có tiếng gì vậy?” Ông tăng nói, “ Tiếng chim tu hú.” Kính Thanh nói, “ Muốn tránh không gây nghiệp vô gián[2], đừng báng Như Lai chính pháp luân.” Một lần nọ Kính Thanh hỏi một ông tăng, “ Ngoài cửa có tiếng gì vậy” Ông tăng nói, “ Tiếng rắn ăn nhái.” Kính Thanh nói, “ Cứ bảo chúng sinh khổ, lại có khổ chúng sinh.” Những lời này với công án trên không khác nhau. Nếu như các tăng sĩ hiểu thấu được điểm này, thì trong đống thanh sắc vẫn được tự do. Còn nếu như không hiểu thấu được, hẳn sẽ bị thanh sắc trói buộc.

Loại công án này các nơi gọi là “ lời tôi luyện.” Song nếu là tôi luyện rốt cuộc lại chỉ là tâm hành. Những kẻ nghĩ như thế không thấy được chỗ vì người của cổ nhân. Những lời của Kính Thanh cũng được gọi là “thấu thanh sắc.” “giải minh vọng tình,” “giải minh việc khai diễn.” Song cho dù là cặn kẽ, vẫn không thoát khỏi có hầm bẫy.

Kính Thanh hỏi như vậy, “Ngoài cửa có tiếng gì vậy?” Ông tăng đáp, “Tiếng mưa rơi.” Kính Thanh lại nói, “Chúng sinh điên đảo, mê mờ rồi đuổi theo sự vật.” Đa số thiên hạ hiểu lầm câu nói này bảo rằng Kính Thanh có ý đưa ông tăng kia vào tròng, nhưng mà hiểu như thế chẳng có gì là đúng cả. Đâu có biết rằng Kính Thanh có khả năng vì người khác. Kính Thanh có đại đãm, đâu có bị câu thúc vào một cơ một cảnh. Nhất là chẳng hề tiếc mí mắt của mình.

Kính Thanh há không biết đó là tiếng mưa rơi sao? Tại sao lại vẫn cố ý hỏi nữa? Các ông phải hiểu rằng vị cổ nhân này dùng gậy dò bóng trên cỏ để mà thử ông tăng này. Ông tăng này cũng khéo chịu bị dồn, bèn nói ngay, “Thế còn hòa thượng thì sao?” Ông ta nói đến mức Kính Thanh phải đi vào bùn đất mà nói rằng, “Ta suýt nữa là không mê mờ chính mình rồi.” Lý do mà Kính Thanh nói như thế là bởi vì ông tăng kia mê mờ chính mình rồi đuổi theo sự vật. Thế còn Kính Thanh tại sao lại cũng mê mờ chính mình? Nên biết rằng trong câu dùng để thử thách ông tăng này, Kính Thanh cũng đã có chỗ xuất thân rồi.

Ông tăng này hàm hồ quá, muốn phá câu nói kia cho nên lại hỏi, “Suýt nữa không mê mờ chính mình’ có nghĩa là gì?” Nếu như là trong tông môn của Đức Sơn hay Lâm Tế thì tiếng hét đã vang đường gậy đã vung rồi. Kính Thanh để lộ ra một con đường, rồi lại theo đó mà vẽ vời dây dưa,lại nói với ông tăng rằng, “Xuất thân thì còn dễ, thoát thể mới là khó.” Tuy nhiên có bậc cổ đức nói, “Tương tục cũng là một điều hết sức khó.” Kính Thanh chỉ với một câu nói mà giải minh cả một sự việc dưới chân ông tăng kia. Tuyết đậu tụng rằng:

TỤNG

Sảnh không, tiếng mưa rơi,

Chuyên gia cũng khó đáp.

Nếu nói từng nhập lưu,

Vẫn như xưa không hiểu.

Hiểu không hiểu,

Nam sơn bắc sơn mưa dạt dào.

BÌNH: Sảnh không, tiếng mưa rơi, chuyên gia cũng khó đáp.” Nếu như các ông gọi đó là tiếng mưa rơi, các ông mê mờ chính mình mà đuổi theo sự vật. Nếu như không gọi đó là tiếng mưa rơi, thì các ông phải xoay chuyển sự vật như thế nào đây? Đến chỗ này, dù là bậc chuyên gia đi nữa cũng khó mà trả lời. Cho nên cổ đức nói, “Hiểu biết bằng thầy, giảm nữa đức thầy. Hiểu cao hơn thầy, mới đáng truyền thụ.” Nam Viện cũng nói, “ Dưới gậy vô sinh nhẫn[3], gặp cơ không nhường thầy.”

“Nếu nói từng nhập lưu, như xưa vẫn không hiểu.” Như trong kinh Lăng Nghiêm nói, “Thoạt đầu Quán Thế Âm Bồ Tát nhập lưu ở chỗ nghe, quên các đối tượng đã nghe. Chỗ vào đã tịch tĩnh, hai tướng đồng tính liễu nhiên vô sinh.” Nếu như bảo đó là tiếng mưa rơi thì không đúng, mà bảo là không phải tiếng mưa rơi cũng không đúng, mà bảo là không phải tiếng mưa rơi cũng không đúng. Hai câu đầu tụng hai tiếng kêu ba tiếng hét, Tuyết Đậu hiểu cơ biến. Câu tụng này nếu như bảo rằng đó là vào đống thanh sắc thì không đúng, nếu họi là thanh sắc thì vẫn như xưa chẳng hiểu ý của thầy ta. Cũng như dùng ngón tay chỉ mặt trăng, mặt trăng không phải là ngón tay. “Hiểu không hiểu, Nam sơn bắc sơn mưa dạt dào.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31333)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26225)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27519)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27910)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26710)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31232)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22924)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30050)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21574)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20241)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22665)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20751)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30314)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28791)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34726)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44225)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35514)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22542)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20685)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24759)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37920)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19043)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19330)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21820)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20871)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29522)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35128)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28816)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32602)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26223)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43151)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34965)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43931)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37900)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21331)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49014)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39838)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53781)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36825)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49739)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47310)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27698)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27026)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24071)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20847)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34319)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22466)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25121)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25847)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22953)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21761)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23321)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21187)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant