Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi: Cây Gậy Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16450)
Tắc thứ Sáu Mươi: Cây Gậy Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ SÁU MƯƠI

CÂY GẬY CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Chư Phật chúng sinh vốn chẳng dị biệt, núi sông và mình há có sai khác? Tại sao lại có sự phân chia thành hai như thế? Dù cho các ông có thể xoay chuyển thoại đầu, cắt đứt câu nói, chỉ buông tha thôi cũng không đủ. Nếu như các ông không buông bỏ, cả trời đất này cũng chẳng đáng để nắm giữ. Song thế nào là chỗ để xoay chuyển thoại đầu? Thử nêu lên xem.

CỬ: Vân Môn đưa gậy ra dạy chúng rằng, “Cây gậy đã hóa thành rồng, nuốt trọn cả trời đất rồi. Sơn hà đại địa, còn đâu mà có nữa?”

BÌNH: Như câu nói của Vân Môn rằng “cây gậy đã hóa thành rồng, nuốt trọn cả trời đất rồi. Sơn hà đại địa còn đâu mà có nữa?” Nếu như các ông bảo là có thì các ông mù, nếu như các ông bảo là không thì các ông chết. Các ông có thấy chỗ vì người của Vân Môn chăng? Trả lại cây gậy cho tôi đi. Người bây giờ không hiểu được chỗ độc lộ của Vân Môn. Lại đi bảo rằng Vân Môn dựa vào sắc mà minh giải tâm, nương vào vật mà xiển minh lý. Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp bốn mươi chín năm, không thể không biết lối nghị luận này. Tại sao lại còn cần phải niêm hoa để Ca Diếp mỉm cười? Lão hán này lại gây lúng túng đi nói rằng, “Ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, nay trao lại cho Ma Ha Ca Diếp.” Tại sao lại phải đơn truyền tâm ấn? Các ông đã là khách trong môn hạ của Tổ sư, song có hiểu được việc đơn truyền tâm ấn này không?

Nếu như trong lòng các ông mà có một vật, lập tức sơn hà đại địa hiển hiện, còn nếu trong lòng không chấp một vật gì thì bên ngoài chẳng có tơ hào gì cả. Còn gì mà phải nói đến nào lý với trí đối tượng rõ ràng cùng sự hiểu biết thần diệu. Tại sao vậy? Bởi vì hiểu một là hiểu tất cả, rõ một là rõ tất cả. Trường Sa nói, “ Những người học đạo không biết cái Thật, chỉ cứ lo đi nhận cái thần thức, cái gốc sinh tử vô lượng kiếp, kẻ mê gọi là bổn lai nhân.” Nếu như các ông hốt nhiên đả phá được ấm giới, thân tâm nhất như, ngoài thân không có gì cả, các ông vẫn chưa đạt được nữa kia. Nói gì đến việc dựa vào sắc để minh giải tâm, nương vào vật để xiển minh lý?

Cổ nhân nói, “Một hạt bụi vừa khởi lên, cả vũ trụ đã được bao gồm trong đó.” Song thử nói xem, một hạt bụi nào vậy? Nếu như các ông biết được hạt bụi này thì các ông biết được cây gậy của Vân Môn. Ngay khi Vân Môn vừa dơ gậy lên, chúng ta đã thấy ngay được các diệu dụng của thầy ta. Nói như vậy cũng đã là dây dưa rồi, hà huống đến chuyện hóa thành rồng. Khánh Tàng Chủ nói, “ Năm ngàn bốn mươi tám quyển, há từng có nói gì sao?” Vân Môn mỗi lần dơ gậy ra là niêm lên được cả toàn cơ đại dụng, vì người một cách sống động thay.

Ba Tiêu dạy chúng rằng, “Lỗ mũi của nạp tăng ở cả trên cây gậy này.” Vĩnh Gia nói, “ Không phải chỉ là hình thức bề ngoài, mà đúng thật là dấu vết của Như Lai bảo trượng.” Xưa dưới thời Phật Nhiên Đăng, Phật Thích Ca xõa tóc ra để che bùn cho Phật Nhiên Đăng. Phật Nhiên Đăng nói, “Nên xây một tự viện ở chỗ này.” Có một thiên tử bèn cắm một cọng cỏ xuống nói rằng, “ Tự viện đã được xây xong.” Các ông thử cho tôi biết xem, chuyện này ở đâu mà có vậy?

Tổ sư nói, “Đầu gậy chứng đắc, dưới hét đảm đương.” Song thử nói xem. Đảm đương cái gì cơ? Hốt nhiên có người hỏi, “Thế nào là gậy?” Các ông sẽ lộn nhào sao? Sẽ vỗ tay sao? Tất cả những thứ này chỉ là trò ma quỉ, may mà chẳng có gì là nhằm nhò cả. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Cây gậy nuốt trọn trời đất,

Nói mãi hoa đào trên sóng.

Kẻ cháy đuôi không nói nắm mây bắt sương,

Kẻ hụt hơi sao phải thất kinh hồn vía?

Nêu lên rồi,

Có nghe không?

Cân phải tiêu sái tự tại

Chớ nên bối rối phân vân.

Bảy mươi hai gậy vẫn tha thứ,

Một trăm năm mươi khó tha ông.

Sư bỗng dơ gậy rồi hạ tòa,

Đại chúng lập tức tẩu tán.

BÌNH: Vân Môn vì người một cách vòng vo, Tuyết Đậu vì người một cách trực tiếp. Cho nên Tuyết Đậu mới gạt bỏ cái chuyên hóa thành rồng , cho là chẳng đáng nói, chỉ có việc “ cây gậy nuốt trọn trời đất mà thôi.” Ý của Tuyết Đậu chỉ là sao để thiên hạ đừng chấp voà thiên kiến. Thầy ta tiếp tục nói, “ Nói mãi hoa đào trên sóng.” Không còn cần phải hóa thành rồng nữa. Ở Ngu Môn có ba đợt sóng, cứ mỗi độ đến tháng ba khi hoa đào nở và sóng dâng, những con cá nào có thể bơi ngược dòng nước rồi vượt qua các lớp sóng thì sẽ hóa thành rồng. Tuyết Đậu nói dù có hóa thành rồng đi nữa cũng chỉ là những lời nói vô ích mà thôi.

“Kẻ cháy đuôi không nói nắm mây bắt sương.” Khi cá vượt qua Vũ Môn tự nhiên có lửa trời đốt chày đuôi chúng; cá nắm mây bắt sương mà đi. Tuyết Đậu ý muốn nói rằng dù cho là hóa thành rồng đi nữa cũng không phải là việc nắm mây bắt sương. “ Kẻ hụt hơi sao phải thất kinh hồn vía?” Thanh Lương Sớ nói trong lời tựa rằng, “Dù cho là bậc Bồ Tát tích hạnh đi nữa cũng cứ hụt hơi ở Vũ Môn.” Ý của Thanh Lương muốn nói rằng Hoa Nghiêm cảnh giới không phải là chỗ mà tiểu đức tiểu trí có thể đạt đến được. Giống như những con cá muốn vượt qua Long Môn, những con vượt không được bị điểm lên đỉnh đầu mà quay về, rồi bị mắc cạn nơi vũng nước trên bãi cát, nằm đó mà thở dốc. Tuyết Đậu ý muốn nói rằng những con cá bị điểm lên đầu đuổi về ắt là đều thất kinh hồn vía.

“Nêu lên rồi, có nghe không?” Tuyết Đậu lại bỏ thêm cước chú, trong một lúc quét sạch cả cho các ông. Cho nên các ông cần phải “tiêu sái tự tại, cho nên bối rối phân vân.” Nếu như các ông vẫn tiếp tục bối rối phân vân, thì các ông mất đi cây gậy. “Bảy mươi hai gậy vẫn tha thứ, một trăm năm mươi khó tha ông.” Tuyết Đậu đã vì các ông mà bỏ nặng theo nhẹ. Cổ nhân nói, “Bảy mươi hai gậy biến thành một trăm năm mươi.” Người thời nay hiểu lầm chỉ lo đi tính toán con số, nói rằng, “Lẽ ra phải là bảy mươi lăm gậy chứ tại sao lại chỉ có bảy mươi hai?” Đâu có biết rằng ý của cổ nhân nằm ở ngoài ngôn ngữ. Cho nên mới có câu nói rằng, “Việc này không nằm trong ngôn ngữ.” Tuyết Đậu sở dĩ dẫn dụng việc này là cốt để cho người đời sau đừng xuyên tạc. Dù cho các ông có tiêu sái tự tại thực đi nữa, các ông vẫn cứ đáng ăn bảy mươi hai gậy như thường. Đây vẫn là tha thứ cho các ông một cách dễ dàng. Cho dù là các ông không được như vậy, cũng khó tha cho các ông một trăm năm mươi gậy.

Tuyết Đậu kể như đã tụng xong rồi, lại vẫn dơ gậy lên mà làm lại một lần nữa. Tuy là thế, song thầy ta vẫn không phải là một kẻ có máu dưới da.
 
 

[1] “Đầu vàng” ngụ ý chỉ đức Phật.

[2] “Mắt xanh” (bích nhan) ngụ ý chỉ ngài Bồ Đề Đạt Ma.

[3] Về tiểu sử xin xem thêm trong Cảnh Đức Truyền Đăng lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[4] Ngụ ý nói ngài Bồ Đề Đạt Ma.

[5] Tức là viên ngọc quí có thể thực hiện tất cả các ước nguyện của người tín đồ.

[6] Ý nói Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc qua.

[7] Nạp tử có nghĩa là tăng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31373)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26252)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27566)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27952)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26746)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20303)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22993)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30107)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21627)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20306)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22705)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20806)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30371)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28831)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44262)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35563)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22585)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21405)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20718)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24798)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37968)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19098)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21864)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20904)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29550)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28856)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32634)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26265)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28975)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43187)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34997)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44007)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21357)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43070)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49049)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39895)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53829)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36852)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40850)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49767)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47362)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27791)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27256)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20880)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34346)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22516)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25158)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25887)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22994)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22503)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21778)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21203)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant