Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Chín Mươi Sáu: Ba Chuyển Ngữ Của Triệu Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15336)
Tắc thứ Chín Mươi Sáu: Ba Chuyển Ngữ Của Triệu Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI SÁU

BA CHUYỂN NGỮ CỦA TRIỆU CHÂU

 

CỬ: Triệu Châu dùng ba chuyển ngữ để dạy chúng.

BÌNH: Sau khi dạy ba chuyển ngữ xong, cuối cùng Triệu Châu nói, “Chân Phật ngồi trong nhà.” Câu nói náy hết sứctế nhị. Cổ nhân đưa một mắt ra, với một tay ra để tiếp thiên hạ; tạm mượn vào lời nói này để diễn đạt một ý niệm, vì muốn giúp thiên hạ. Nếu như các ông lại đế cả chính lệnh lên, ắt là mọc cỏ cao một trượng trước Pháp đường. Tuyết Đậu không thích câu cuối lậu đậu quá, cho nên bỏ đi mà chỉ tụng câu. Phật bằng bùn mà qua nước thì ắt là bị rã, Phật bằng vàng mà qua ló ắt là bị chảy, Phật bằng gỗ mà qua lửa ắt là bị đốt. Có chỗ nào khó hiểu đâu? Một trăm tắc tụng cổ Tuyết Đậu đầy những dây dưa; chỉ có ba câu này là trực tiếp có khí phách của nạp tăng trong ấy. Chỉ có điều ba câu tụng này cũng rất là khó hiểu. Nếu như các ông thấu qua được ba câu tụng này, miễn cho các ông khỏi phải tham học nữa.

TỤNG

Phật bùn không qua nước,

Thần quang chiếu thiên địa.

Trong tuyết nếu chưa thôi,

Có ai không giả tạo?

BÌNH: “Phật bùn không qua nước, thần quang chiếu thiên địa. Một câu này cũng đủ tụng phân minh rồi; song thử nói xem tại sao thầy ta lại dẫn Thần Quang? Lúc Nhị Tổ (Thần Quang) mới sinh ra, thần quang chiếu sáng cả nhà, trải cao đến tận trời. Một đêm có thần nhân hiện ra nói với Nhị Tổ rằng, “Tại sao lần lửa ở đây lâu thế? Giờ đắc đạo của ngài đã đến rồi, mau đi về phương nam đi thôi.” Nhị Tổ vì gặp gỡ với thần nhân, cho nên mới có tên là Thần Quang. Thần Quang ở đất Y Lạc một thời gian khá lâu, học rộng tất cả các thứ sách vở, thường hay thở than rằng, “Đạo Khổng và đạo Lão chỉ truyền dạy phong tục và qui củ. Gần đây nghe có Đạt Ma Đại Sư trụ trì Thiếu Lâm. ”Bèn đến đó sớm hôm xin tham kiến. Đạt Ma chỉ ngồi thẳng quay mặt vào vách chẳng hề giảng dạy gì cả. Thần Quang tự nhủ, “Người đời xưa cầu đạo, bẻ xương moi tủy, trích máu cứu đói, xõa tóc che bùn, lao mình từ đỉnh cao, xả thân cứu cọp đói. Người đời xưa mà còn như thế, mình thì sao đây?”

Năm ấy vào đêm mồng chín tháng mười hai có trận tuyết lớn. Nhị Tổ đứng dưới thềm cho đến sáng tuyết ngập đến tận đầu gối. Đạt Ma thương hại hỏi, “Ông đứng dưới tuyết như thế, chẳng hay muốn cầu việc gì vậy?” Nhị Tổ nhỏ lệ nói, “Chỉ nguyện xin Thầy từ bi khai mở cam lộ môn, quảng độ quần sinh.” Đạt Ma nói, “Diệu đạo của chư Phật, đòi hỏi phải chuyên cần bao nhiêu kiếp, thực hành những cái khó thực hành, nhẫn thụ những cái không thể nhẫn thụ; há có thể lấy tiểu đức tiểu trí, khinh tâm mạn tâm mà mong đạt được chân thừa,làm gì có chuyện ấy.” Nhị Tổ nghe lời dạy như thế, tâm cầu đạo càng tha thiết hơn nữa, bèn lén lấy dao cắt đứt tai trái dâng lên trước mặt Đạt Ma. Đạt Ma biết đó là bậc pháp khí, bèn hỏi, “Ông đứng dưới tuyết rồi chặt tay như thế, chẳng hay vì việc gì vậy?” Nhị Tổ nói, “ Tâm con chưa an, cúi xin Thầy an tâm cho.” Đạt Ma nói, con chưa an, cúi xin Thầy an tâm cho.” Đạt Ma nói, “Đem tâm ông ra đây, rồi ta an cho.” Nhị Tổ nói, “Tìm tâm mãi mà không tìm ra.” Đạt Ma nói, “Ta an tâm cho ông rồi đó.” Sau đó Đạt Ma đổi tên cho Thần Quang thành Huệ Khả. Sau đó Huệ Khả tiếp thụ Tam Tổ là Tăng Sán Đại Sư.

Cho nên Tuyết Đậu nói, “Trong tuyết nếu chưa thôi, có ai không giả tạo?” Những kẻ giả tạo đều bắt chước Thần Quang đứng trong tuyết, đâm ra thành thời thượng bề ngoài, đó chỉ là một bọn xiểm ngụy mà thôi. Tuyết Đậu tụng “Phật bùn không qua nước,” tại sao lại dẫn câu chuyện này ra? Thầy ta tham Thiền được đến mức độ trong ý căn không còn một sự việc gì nữa,hoàn toàn tự tại thánh thoát, cho nên mới tụng được như vậy.

Ngũ Tổ thường dạy thiên hạ quán ba câu tụng này. Há không nghe Động Sơn Thủ Sơ hòa thượng có bài tụng dạy chúng rắng, “Trên đỉnh Ngũ Đài mây là cơm, phía trước Phật đường chó đái ngược. Bánh rán trên đầu gậy trúc, ba con khỉ đếm tiền đêm. Đỗ Thuận Hòa Thượng nói, “Bò Hoài Châu ăn lúa, ngựa Ích Châu căng bụng. Tìm thầy thuốc khắp nơi, châm đùi trái của lợn.” Phó Đại Sĩ tụng, “Tay không cầm cái mai, đi bộ cưỡi lưng trâu. Người lững thững qua cầu, cầu trôi nước chẳng trôi.” Lại nói rằng, “Người đá nếu giống ông, cũng biết hát nghêu ngao. Nếu ông giống người đá, phải hát họa lẫn nhau.” Nếu như các ông hiểu được những lời này thì mới hiểu được tụng của của Tuyết Đậu.

TỤNG

Phật vàng không qua lò,

Người đến thăm Tử Hồ.

Trên bảng một vài chữ,

Gió mát chốn nào không?

BÌNH: “Phật vàng không qua lò, người đến thăm Tử Hồ. Chỉ một câu cũng đủ kết thúc tụng rồi, tại sao Tuyết Đậu còn phải dẫn thêm câu “ người đến thăm Tử Hồ” nữa? Cần phải có đe và bễ của tay chuyên môn mới được. Tử Hồ Hòa Thượng dựng một tấm bảng trước cổng chùa, trên bảng có viết, “Tử Hồ có một con chó tre thì lấy đầu người, giữa thì lấy bụng người, dưới thì lấy chân người. Tần ngần là sẽ táng thân thất mạng.” Phàm mỗi lần thấy ai mới đến, Tử Hồ bèn hét và nói rằng, “Coi chừng chó!” Ông tăng vừa quay đầu lại ngó, Tử Hồ đã trở về phương trượng. Song thử nói xem, tại sao lại không cắn được Triệu Châu? Một hôm lúc đêm đã khuya, Tử Hồ la ầm trong nhà sau rằng, “Bắt ăn trộm, bắt ăn trộm!” Đụng phải một ông tăng trong bóng tối, Tử Hồ bèn túm lấy ngực ông tăng nói rằng, “Bắt được rồi, bắt được rồi!” Ông tăng nói, “Hòa thượng, đâu có phải là con.” Tử Hồ nói, “Phải đấy, có điều ông không dám nhận mà thôi.” Nếu như các ông hiểu được câu chuyện này, thì tôi để mặc cho các ông cắn chết hết mọi người trong thiên hạ. Chỗ nào gió trong cũng lạnh căm. Nếu như không hiểu được thì các ông chẳng làm được gì “một vài chữ trên bảng” kia. Nếu như muốn thấy thầy ta, thì phải thấu qua mới có thể thấy ý nghĩa của bài tụng được.

TỤNG

Phật gỗ không qua lửa,

Thường nghĩ ông phá lò.

Cây gậy hốt nhiên đánh,

Mới hay cô phụ mình.

BÌNH: “Phật gỗ không qua lửa, thường nghĩ ông phá lò.” Chỉ một câu là đủ tụng xong. Tuyết Đậu bởi vì “Phật gỗ không qua lửa” cho nên mới thường “nghĩ đến ông phá lò.” Tung Sơn “Phá Lò” hòa thượng không ai biết danh tính thật là gì, ngôn hành thâm sâu khôn dò, ẩn cư trên Tung Sơn. Một hôm dẫn đồ chúng đi thăm dân bản xứ. Dân bản xứ nyà có một cái miếu cho là rất linh, trên điện chỉ đặt mỗi một cái lò, xa gần đến cúng kiếng không ngớt, giết chết rất nhiều sinh vật. Sư vào miếu lấy gậy gõ lên lò ba cái rồi nói, “Ôi, mi vốn chỉ là gạch và đất làm thành, linh từ đâu tới, thánh từ đâu khởi, làm gì mà mi có quyền giết chết sinh mạng như thế?” Nói xong lại đánh thêm ba cái nữa. Lò bèn tự đổ rồi tan tành. Trong khoảnh khắc có một người mặc áo xanh đội mũ cao hốt nhiên xuất hiện trước mặt Sư, vái rồi nói, “Tôi là thần lò, lâu nay chịu nghiệp báo, hôm nay nhờ thầy nói vô sinh pháp, cho nên được siêu thoát khỏi nơi này, được sinh trên trời, do đó đặc biệt đến để cảm tạ.” Sư nói, “Đó là tính bổn hữu của ông, không phải do tôi cuỡng nói đâu.” Thần lò lại lậy nữa rồi biến mất.

Thị giả nói, “Bọn chúng tôi tham học với hòa thượng đã lâu mà chưa được chỉ thị, ông thần lò kia được dương ta gì mà được sinh lên cõi trời như thế?” Sư nói, “Tôi chỉ nói với ông ta rằng mi vốn chỉ là gạch và đất làm thành, linh từ đâu tới, thánh từ đâu khởi?” Ông tăng không nói gì được. Sư nói, “Ông hiểu không?” Ông tăng nói, “Không hiểu.” Sư nói, “Lạy đi!” Ông tăng cúi lạy. Sư nói, “Vỡ đi, vỡ đi, Đổ đi, đổ đi.” Ông tăng thị giả kia hốt nhiên ngộ đại.

Sau đó có ông tăng thuật lại chuyện trên cho An Quốc Sư. Quốc Sư tán thán rằng, “Người này hiểu rốt ráo nguyên lý vật ngã nhất như.

Thần lò ngộ được cho nên mới chư vậy. Ông tăng kia thân cũng là do ngũ uẩn tạo thành, cho nên Sư cũng nói, “Vỡ đi, vỡ đi. Đổ đi, đổ đi.” Cả hai đều khai ngộ song thử nói xem tứ đại ngũ uẩn với gạch ngói bùn đất là giống hay là khác? Nếu đã như thế thì tại sao Tuyết Đậu lại nói, “Cây gậy hốt nhiên đánh, mới hay cô phụ mình”? Tại sao lại biến thành kẻ cô phụ (chính mình)? Chỉ vì chưa đạt được gậy mà thôi.

Thử nói xem, Tuyết Đậu tụng “Phật gỗ không qua lửa.” tại sao lại dẫn công án phá lò? Lão tăng xin giải thích trực tiếp giải thích cho các ông, ý của thầy ta chỉ nhắm cắt đứt đắc thất, thiên chấp. Chỉ khi nào tự tại thánh thoát, các ông mới thấy được chỗ tha thiết của thầy ta.
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31350)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26233)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27544)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27937)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26735)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31251)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20288)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22975)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30089)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21601)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20289)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22693)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20792)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30355)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28820)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34766)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44251)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35546)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22568)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21391)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20713)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24785)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37940)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19085)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19356)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20897)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29538)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35178)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28843)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32626)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26242)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28954)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43175)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34985)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43968)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37930)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21347)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39874)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36841)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49746)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47338)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27761)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27041)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27246)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24083)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20869)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34334)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22496)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25142)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25871)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22974)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22481)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23335)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant