Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Tám: Trâu Sắt Của Phong Huyệt

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15578)
Tắc thứ Ba Mươi Tám: Trâu Sắt Của Phong Huyệt

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI TÁM

TRÂU SẮT CỦA PHONG HUYỆT

 

THÙY: Nếu luận về tiệm, tức đi ngược lại cái thường hợp với đạo. Xoay trở lung tung trong chốn chợ ồn ào. Nếu luận về đốn, thì không để lại dấu vết, ngàn thánh cũng không biết đâu mà rờ. Thảng hoặc không lập đốn tiệm thì như thế nào? Người nhanh trí chỉ cần một lời, ngựa chạy nhanh chỉ cần một roi. Đúng vào lúc ấy, ai là người chủ động? Thử nêu lên xem.

CỬ: Trong nha môn ở Đinh Châu, Phong Huyệt thượng đường nói, “Tâm ấn của Tổ Sư giống như cái máy trong con trâu sắt, lấy đi thì ấn còn, trụ lại thì ấn phá. Còn như nếu không khử không trừ, thì ấn là đúng hay không ấn là đúng?

Lúc ấyTrưởng Lão Lư Pha bước ra hỏi, “Kẻ hèn này có cái máy của trâu sắt, xin thầy đừng đóng ấn.” Phong Huyệt nói, “ Quen câu kình ngư khuấy biển lớn, lại gặp nhái bén lội trong bìn.” Lư Pha đứng đó suy nghĩ. Phong Huyệt hét, “Trưởng Lão, sao không nói tiếp đi?” Lư Pha vừa toan biện bạch, Phong Huyệt đã lấy phất trần đánh cho một cái. Phong Huyệt nói, “Còn nhớ thoại đầu không? Thử nêu lên xem?” Lư Pha vừa định mở miệng, Phong Huyệt lại dùng phất trần đánh nữa.

Mục chủ nói, “Phật pháp là một với vương pháp.” Phong Huyệt nói, “Ngài thấy được đạo lý gì vậy?” Mục chủ nói, “Không đoạn cái phải đoạn, lại chỉ gây rối loạn.” Phong Huyệt bèn bước xuống khỏi tòa.

BÌNH: Phong Huyệt là bậc tôn túc trong giòng của Lâm Tế. Thuở ban đầu Lâm Tế cũng ở trong chúng hội của Hoàng Bá. (Một hôm) lúc Lâm Tế đang trồng cây tùng, Hoàng Bá nói, “Trong chốn thâm sơn như vầy trồng nhiều tùng như thế để làm gì?” Lâm Tế nói, “Thứ nhất là để làm cảnh cho tự viện, thứ hai là để làm bảng hiệu cho người đời sau.” Nói xong bèn lấy xuổng bới đất. Hoàng Bá nói,” Tuy sự thật là thế, song ông cũng đã ăn hai chục gậy rồi.” Lâm Tế lại bới đất một lần nữa rồi thở hổn hển. Hoàng Bá nói, “Tông môn của chúng ta đến ông là có thể hưng thịnh trong đời vậy.”

Quí Sơn Triết nói, “Lâm Tế giống như thể trên đất bằng gây sóng, tuy là như thế, nhưng mà chỉ khi nào người ta có thể bình tĩnh lúc lâm nguy mới đáng được gọi là bậc đại trượng phu chân chính.” Hoàng bá nói, “Tông môn của chúng ta đến ông là có thể hưng thinh trong đời vậy.” Tựa như thể thương con mà không biết xấu. sau đó Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, “Lúc ấy Hoàng Bá chỉ truyền cho một mình Lâm Tế hay còn có ai khác nữa?” Ngưỡng Sơn nói, “Có chứ, có điều thời đại xa xưa quá rồi cho nên đệ tử không muốn nói cho hòa thượng làm gì.” Qui Sơn nói, “Tuy là thế, song ta vẫn muốn biết, ông thử nói xem sao.” Ngưỡng Sơn nói, “Một người chỉ về phương nam, mệnh lệnh được thi hành ở Ngô Việt, gặp gió lớn mới hưng.” Đây chính là lời tiên tri về Phong Huyệt vậy.

Phong Huyệt thoạt tiên tham học với Tuyết Phong trong năm năm. Có lần xin chỉ thị về câu chuyện sau đây: “Lâm Tế bước vào sảnh đường, các thủ tòa hai bên đều hét lên cùng một lượt. Có ông tăng hỏi Lâm Tế, “Còn có chủ khách nữa hay không?” Lâm Tế nói, “ Chủ khách hiển nhiên ra đó.” Phong Huyệt nói, “Đệ tử chưa hiểu ý nghĩa của công án này là như thế nào?” Tuyết Phong nói, “Thuở xưa ta với Nham Đầu và Khâm Sơn đi gặp Lâm Tế, giữa đường nghe tin rằng thầy ta đã thiên hóa. Nếu như ông muốn hiểu công án về chủ khách này, cần phải tham kiến các bậc tôn túc trong tông phái của thầy ta.”

Sau đó Phong Huyệt lại gặp Thúy Nham. Thúy Nham thường tự gọi, “Này ông chủ!” Rồi lại tự đáp, ”Vâng!” Cũng lại nói, “Hãy tỉnh táo, sau này đừng để thiên hạ lừa.” Phong Huyệt nói, “Tự niêm tự lộng có gì là khó?” Sau đó cũng kiết hạ với Quách Thị Giả ở Lộc Môn, Tương Châu. Quách Thị Giả khuyên Phong Huyệt đến gặp Nam Viện. Phong Huyệt nói, “Vào nhà thì phải phân biện chủ khách, cho nên xin để thầy phân xử.”

Một hôm gặp Nam Viện, Phong Huyệt thuật lại công án trên rồi nói, “Kẻ hèn này đến chính là để tham khảo về việc đó.” Nam Viện nói, “ Tuyết Phong là bậc cổ Phật.”

Một hôm Phong Huyệt gặp Kính Thanh. Kính Thanh hỏi, “Thầy mới từ đâu đến vậy?” Phong Huyệt nói, “Từ phương đông đến.” Kính Thanh nói, “Thuyền lớn bay trên trời, sông nhỏ không qua được.” Kính Thanh nói, “Nước gương núi về, chim qua không được. Phải chăng ông nghe lén di ngôn?” Phong Huyệt nói, “ Biển xanh còn sợ thế tầu lớn, liệt hán dương buồm vượt năm hồ.” Kính Thanh dơ phất trần lên nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Cái này là cái gì vậy?” Kính Thanh nói, “Quả nhiên là ông không biết.” Phong Huyệt nói, “ Biến hiện cuốn mở, cùng một cái dụng với thầy.” Kính Thanh nói, “Đoán mò nghe lời rỗng, ngủ say nói mê man.” Phong Huyệt nói, “Đầm rộng chứa núi, cáo thắng được beo.” Kính Thánh nói, “ Tôi tha tội thứ lỗi cho ông, ông mau đi đi.” Phong Huyệt nói, “Đi là thua” Rồi bèn đi ra, đến Pháp Đường tự nói với mình, “Đại trượng phu, công án chưa xong , làm sao có thể bỏ ngang được?” Lại trở vào phương trượng, thấy Kính Thanh ngồi đó bèn hỏi, “Vừa rồi tự trình kiến giải thô lậu, xúc phạm đến tôn nhan, may mà được hòa thượng rủ lòng từ bi không trách phạt.” Kính Thanh nói, “ Vừa rồi ông bảo là từ phương đông đến, phải chăng là từ Thúy Nham đến?” Phong Huyệt nói, “ Tuyết Đậu ở phía đông của Bảo Cái.” Kính Thanh nói, “Đừng đuổi dê lạc hiểu lầm dứt, rồi lại đến đây ngâm bài thơ.” Phong Huyệt nói, “ Gặp bậc kiếm khách nên dâng kiếm, không phải thi nhân dừng tặng thơ.” Kính Thanh nói, “ Mau gạt thơ qua một bên, thử dùng kiếm xem sao.” Phong Huyệt nói, “ Kẻ bị chặt đầu đem kiếm đi rồi.” Kính Thanh nói, “Không những đã phạm phong hóa, còn lộ đầu mít đặc.” Phong Huyệt nói, “ Nếu không phạm phong hóa, sao hiểu cổ Phật tâm?” Kính Thanh nói, “ Cổ Phật tâm là gì?” Phong Huyệt nió, “Lại chấp nhận nữa, bây giờ thầy có gì?” Kính Thanh nói, “Ông tăng từ phương đông đến này không phân biệt được đậu và lúa mạch.” Phong Huyệt nói, “ Chỉ nghe không dứt mà dứt, làm sao có thể buộc nó dứt mà nó dứt được?” Kính Thanh nói, “Sóng lớn dâng ngàn trường, ba đào không lìa nước. Một câu cắt đứt dòng tư tưởng, vạn cơ lập tức tự tịch diệt.” Phong Huyệt bèn cúi lạy. Kính Thanh lấy phất trần điểm vào người Phong Huyệt ba lần rồi nói, “ Hùng vĩ thay, bây giờ ngồi xuống dùng trà đi.”

Lúc Phong Huyệt mới đến gặp Nam Viện, bước vào mà không cúi lậy. Nam Viện nói, “ Vào nhà phải biết nhìn xem ai là chủ nhân chứ!”Phong Huyệt nói, “ Xin mời thầy phân biện rõ ràng.” Nam Viện dùng tay trái vỗ lên đầu gối một cái. Phong Huyệt bèn hét. Nam Viện bèn dùng tay phải vỗ lên đầu gối một cái. Phong Huyệt cũng hét. Nam Viện bèn dơ tay trái lên rồi nói, “ Cái này xin theo thầy.” Rồi lại dơ tay phải lên nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Mù!” Nam Viện bèn dơ gậy lên. Phong Huyệt nói, “ Hòa thượng làm gì vậy?Thế nào tôi cũng giựt gậy mà đánh cho, lúc ấy chớ có bảo là tôi không nói trước.” Nam Viện nói, “Hôm nay ta bị gã, mặt vàng miền Chiết Giang này chọc quê.” Phong Huyệt nói, “ Hòa thượng không ôm nổi bình bát, đừng giả bộ nói là mình không đói.” Nam Viện nói, “ Thầy có đến nơi này bao giờ chưa?” Phong Huyệt nió, “ Nói vậy là ngụ ý gì thế?” Nam Viện nói, “ Chỉ hỏi vậy mà thôi.”Phong Huyệt nói, “Vẫn chưa thể buông tha được.” Nam Viện nói, “Ngồi xơi trà đi.”

Các ông thử nhìn xem các bậc anh tuấn trong Thiền thường có cơ phong sắc bén như vậy đấy. Ngay cả Nam Viện cũng không nhìn ra được thầy ta ( Phong Huyệt). Đến hôm sau Nam Viện chỉ hỏi một câu hỏi bình thường, “Mùa hè này thầy ở đây?” Phong Huyệt nói, “Tôi quá hạ ở Lộc Môn cùng với Quách Thị Giả.” Nam Viện nói, “Té ra là troúc khi đến đây ông đã gặp một chuyên gia rồi.” Rồi lại nói, “Quách Thị Giả nói gì với ông vậy?” Phong Huyệt nói, “Thủy chung thầy ta chỉ dạy tôi lúc nào cũng phải đóng vai chủ.” Nam Viện bèn đánh và xô ra khỏi phương trượng vừa nói, “Kẻ chịu thua như vậy thì còn dùng được vào việc gì nữa!”

Phong Huyệt từ đó chịu phục và làm người làm vườn ở nơi chúng hội của Nam Viện. Một hôm Nam Viện vào vườn hỏi, “Ở phương nam thiên hạ thương lượng về một chiếc gậy như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Thương lượng một cách hết sức đặc biệt.Còn ở đây thì như thế nào,bạch hòa thượng?” Nam Viện dơ gậy lên nói, “Dưới gậy vô sinh nhẫn,gặp cơ không nhường thầy.” Phong Huyệt nghe thế bèn hoát nhiên đại ngộ.

Lúc ấy là vào thời Ngũ Đại ly loạn. Vị châu mục của Đinh Châu mời Sư (Phong Huyệt) đến kiết hạ ở đó. Lúc ấy tông phái của Lâm Tế thịnh hành vô cùng. Bất cứ vấn đáp hay giảng dạy. lúc nào lời lẽ của Sư cũng sắc bén hết sức. Rải hoa kết gấm, mỗi chữ đều là cốt yếu. Một hôm châu mục mời sư thượng đường dạy chúng. Sư nói, “Tâm ấn của Tổ Sư giống như cơ thể cơ quan của con trâu sắt. Không có chỗ nào để cho các ông điều động cả. Ông vừa lấy đi thì ấn trụ, ông vừa để lại thì ấn phá, khiến các ông lúng túng vô cùng. Song nếu như các ông không lấy đi không để lại, thì có ấn cũng được mà không có ấn cũng được.” Tại sao lại không giống như cái máy của con trâu sắt? Không có chỗ để cho các ông điều động. Ông lấy đi thì ấn trụ, ông để lại thì ấn phá, khiến các ông lúng túng vô cùng. Còn nếu như các ông không lấy đi không để lại thì có ấn cũng thế mà không có ấn cũng thế. Nhìn xem cách Sư giảng dạy, đúng là đầu lưỡi câu có mồi.

Lúc ấy trong cử tọa có vị Trưởng lão tên là Lư Pha, cũng là bậc tôn túc trong dòng Lâm Tế. Lư Pha dám xuất đầu lộ diện để đối cơ với Phong Huyệt bằng một cách hết sức đặc sắc là chuyển thoại đầu của Sư thành câu hỏi rằng, “Tôi có cái máy của con trâu sắt, xin thầy đừng đóng ấn.” Ai dè Phong Huyệt là một tay chuyên gia cho nên bèn đáp rằng, “ Quen câu kình ngư khuấy biển lớn, lại gặp nhái bén lội trong bùn.” Cũng là trong lời nói có tiếng vọng. Vân Môn nói, “Thả câu bốn biển, chỉ câu mãnh long. Huyền cơ đặc biệt, chỉ tìm tri kỷ.”

Trong biển lớn dùng mưòi hai con trâu để làm mồi câu, song lại chỉ câu được mỗi con nhái.Lời này đã chẳng có gì là huyền diệu mà lại cũng chẳng có đạo lý gì để mà so đo. Cổ nhân nói, “Nếu chỉ nhìn nơi sự vật thì dể, còn nếu như đi so đo bằng ý căn ắt chẳng có gì là nhằm nhò cả. Lư Pha đứng đó mà suy tư. Trông thấy nó mà không biết nắm lấy, ngàn năm e khó gặp được nữa. Đáng tiếc thay! Cho nên mới có câu nói rằng, “Dù cho giảng được ngàn kinh luận, một câu hợp thời khó thốt ra.”

Kỳ thực Lư Pha toan tìm ra những lời hay đẹp để đáp lại Phong Huyệt, không muốn thi hành mệnh lệnh, song rốt cuộc lại bị Phong Huyệt bức bằng thứ cơ phong “cướp cờ đoạt trống.” Trưỡng Lão không còn biết phải làm gì. Giống như lời ngạn ngữ nói, “Bại trân không khỏi bị chổi cỏ quét sạch.” Thoạt đầu vẫn cần phải tìm thương pháp để đối địch, song đợi đến khi tìm được thì đầu đã bị rơi xuống đất rồi.

Vị châu mục cũng học Thiền với Phong Huyệt rất lâu, ông ta biết nói, “Phật pháp với Vương pháp là một.” Phong Huyệt nói, “Ông thấy được cái gì?” Châu mục nói, “Không đoán định được những cái phải đoán định rốt cuộc chỉ gây loạn.” Phong Huyệt là cả một khối tâm linh giống như thể một hồ lô trên mặt nước, ấn nó xuống thì nó quay vòng, đè nó xuống thì nó động. Phong Huyệt biết tùy cơ thuyết Pháp, nếu như không hợp với cơ thì rốt cuộc chỉ là những lời loạn ngữ mà thôi. Phong Huyệt bèn xuống khỏi tòa.

TỤNG

Bắt được Lư Pha cưỡi trâu sắt,

Thương giáp tam huyền khó chống cứ.

Bên thành vua Sở nước triều lên,

Hét lên làm nước chảy ngược chiều.

BÌNH: Tuyết Đậu biết Phong Huyệt có tông phong như thế cho nên mới tụng rằng, “ Bắt được Lư Pha cỡi trâu sắt, thương giáp tam huyền khó chống cự.” Trong tông phái của Lâm Tếtam huyền tam yếu. Trong một câu phải có đủ cả tam huyền, trong một huyền phải có đủ cả tam yếu. Có ông tăng hỏi Lâm Tế, “Thế nào là câu thứ nhất?” Lâm Tế nói, “ An tấm ấn mở điểm son hẹp, không để so đo chủ khách phân.” Thế nào là câu thứ nhì?” Lâm Tế nói, “Diệu biện há không dùng câu hỏi, phương tiện không phụ cơ cắt dòng.” Thế nào là câu thứ ba?” Lâm Tế nói, “Cứ nhìn người nộm trên sân khấu, kéo giựt đều nơi kẻ ở trong.”

Trong một câu của Phong Huyệt đã có đầy đủ cả thương giáp của tam huyền, thật sự tùy thân cho nên không dễ gì ai chống cự được. Nếu như Sư không như thế thì làm gì được Lư Pha? Sau cùng Tuyết Đậu muốn nêu ra cái cơ phong của Lâm Tế, đừng có nói là Lư Pha,cho dù là bên thành của Sơ vương, sóng cả chập chùng, ba đào lồng lộng, tất cả đều quay về nguồn. Chỉ cần một tiếng hét thôi cũng đủ khiến chúng chảy ngược lại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31350)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26233)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27544)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27937)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26736)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31252)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20291)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22976)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30089)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21601)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20289)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22693)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20793)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30358)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28820)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34766)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44252)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35546)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22568)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21392)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20714)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24785)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37942)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19088)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19356)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20897)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29538)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35180)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28843)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32627)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26242)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28955)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43175)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34986)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43971)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37930)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21347)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43043)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39874)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53806)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36842)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49747)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47340)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27763)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27041)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27246)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24083)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20870)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34336)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22498)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25142)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25872)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22974)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22481)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23336)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant