Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bốn Mươi Hai: Từng Phiến Tuyết Của Bàng Cư Sĩ

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15544)
Tắc thứ Bốn Mươi Hai: Từng Phiến Tuyết Của Bàng Cư Sĩ

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 5

TẮC THỨ BỐN MƯƠI HAI

TỪNG PHIẾN TUYẾT CỦA BÀNG CƯ SĨ

 

THÙY: Đơn đề độc lộng, vương nước lầm bùn. Xướng họa đồng hành, núi bạc tường sắt. So đo liền thấy quỉ trước mặt, tâm tư thì như ngồi dưới ngọn núi đen. Mặt trời rực rỡ trên không. Gió trong xào xạc dưới đất. Thử nói xem cổ nhân còn có chỗ lầm lẫn chăng? Xin nêu lên xem.

CỬ: Bàng Cư Sĩ từ giả Dược Sơn, Dược Sơn sai mười Thiền khách tiễn ra tận cổng. Bàng Cư Sĩ chỉ tuyết trên không nói, “Từng phiến tuyết đẹp không rơi chỗ khác.” Lúc ấy có vị Thiền khách tên Toàn nói, “Rơi ở chỗ nào cơ?” Bàng Cư Sĩ bèn đánh một bạt tai. Toàn thiền khách nói, “Cư sĩ không nên thô lỗ như thế.” Bàng Cư Sĩ nói, “Làm sao ông tự gọi mình là Thiền khách được, Diêm Vương chưa có tha ông đâu.” Toàn thiền khách nói, “Thế cư sĩ thì sao?” Bàng Cư Sĩ lại đánh thêm cho một tát tai nữa, nói, “Mắt thấy mà như mù, miệng nói mà như câm.” Sau đó Tuyết Đậu nói, “Lúc ông ta mới hỏi phải vo tuyết lại mà ném ông ta mới phải.”

BÌNH: Bàng Cư Sĩ tham kiến Mã TổThạch Đầu, cả hai chỗ đều có tụng. Lúc mới gặp Thạch Đầu, Bàng Cư Sĩ bèn hỏi, “ Không cùng với vạn pháp làm bạn lữ là người như thế nào?” Chưa nói dứt lời đã bị Thạch Đầu bịt miệng. Bàng Cư Sĩ tỉnh ngộ mới làm bài tụng rằng, “ Việc hàng ngày không khác, chỉ mình tự hài hòa. Chẳng có gì thủ xả, không chỗ nào chống theo. Đỏ tía ai xem qúi, núi xanh không hạt bịu. Thần thôngdiệu dụng, bổ củi và gánh nước.”

Sau đó đến tham kiến Mã Tổ , lại hỏi, “ Không cùng với vạn pháp làm bạn lữ là người như thế nào?” Mã Tổ nói, “Đợi khi nào ông một ngụm uống cạn nước sông Giang tây ta sẽ nói cho ông.” Bàng Cư Sĩ hoát nhiên đại ngộ, làm bài tụng rằng, “ Mười phương cùng tụ hội, ai nấy học vô vi. Đây là nơi tuyển Phật, tâm không thi đậu về.”

Bởi vì Bàng Cư Sĩ là tay chuyên gia, cho nên sau đó tự viện nào cũng ngưỡng vọng ông. Đến đâu thiên hạ cũng tranh nhau ca tụng ông. Sau đến Dược Sơn, quyến luyến một thời gian lâu rồi mới từ biệt Dược Sơn. Dược Sơn đặc biệt kính trọng Bàng Cư Sĩ cho nên mới sai mười Thiền khách tiễn. Lúc ấy tuyết đang rơi, Bàng Cư Sĩ chỉ tuyết nói, ”Từng phiến tuyết đẹp không rơi chỗ nào khác.” Toàn thiền khách nói, “Rơi ở chỗ nào cơ?” Bàng Cư Sĩ bèn đánh ông ta. Bởi vì Toàn thiền khách không thi hành lệnh được, Bàng Cư Sĩ mới ban lệnh cho thi hành một nửa. Tuy rằng lệnh được thi hành song Toàn thiền khách đối đáp như thế lại không đúng. Ông ta không hiểu cốt yếu ( của ông án). Mọi người đều có cơ phong của mình, song cách thi triển không giống nhau. Song ông ta vẫn không đến được mức độ của Bàng Cư Sĩ. Sau khi đánh ông ta xong, Bàng Cư Sĩ lại giải thích rằng, “ Mắt thấy mà như mù, miệng nói mà như câm.” Tuyết Đậu nói thêm về những lời trên rằng, “ Lúc ông ta mới hỏi phải vo tuyết lại mà ném ông ta mới phải.” Tuyết Đậu làm như thế là vì không muốn cô phụ câu hỏi của Toàn thiền khách. Chỉ có điều cơ duyên hơi chậm. Khách Tàng Chủ nói, “ Tâm cơ của Bàng Cư Sĩ như thể điện chớp. Cứ đợi ông nhặt viên tuyết mãi đến bao giờ đây? Ông ta vừa nói là đánh mới có thể cắt đứt ông ta được.”

Tuyết Đậu tụng chỗ đánh của Bàng Cư Sĩ rằng:

TỤNG

Vo tuyết ném, vo tuyết ném!

Cơ quan lão Bàng không nắm được.

Thiên thượng nhân gian không tự biết,

Trong mắt trong tai thật tiêu sái.

Thật tiêu sái,

Bích nhãn hồ tăng chẳng biện được.

BÌNH: “Vo tuyết ném, vo tuyết ném! Cơ quan lão Bàng không nắm được.” Tuyết Đậu muớn đi trên đầu Bàng Cư Sĩ. Cổ nhân dùng tuyết để giải minh một vấn đề. Tuyết Đậu ý muốn nói rằng nếu như lúc ấy vo tuyết lại mà ném thì dù Bàng Cư Sĩcơ quan gì đi nữa cũng chẳng biết rờ rẫm thế nào. Tuyết Đậu tự khoa trương chỗ đánh của mình, chẳng hề hay biết cái chỗ trật khớp. “Thiên thượng nhân gian không tự biết, trong mắt trong tai thật tiêu sái.” Trong mắt là tuyết, trong tai cũng là tuyết, chính đang trụ nơi một phía. Cũng gọi là cảnh giới của Phổ Hiền. Một “sự việc” cũng gọi là hợp thành một thể. Vân Môn nói, “Dù là ‘được cả càn khôn đại địa không còn chút tơ hào âu lo vẫn cứ còn là một chuyện cũ.” Không thấy một sắc nào cả, mới chỉ là nửa vấn đề. Nếu như muốn thấy trọn vấn đề, phải biết là có con đường hướng thượng mới được. Đến chỗ này rồi cần phải đại dụng hiện tiền, không để ngay cả mũi kim lọt, không nghe sự phân xử của người khác.

Cho nên mới có câu nói, “Thầy ta chỉ tham câu sống chứ không tham câu chết.” Cổ nhân nói, “Một câu thích hợp là một cái cọc buộc lừa suốt vạn kiếp.” Có chỗ thích ích dụng nào? Tụng của Tuyết Đậu đến đây là hết. Song lại chuyển cơ nói rằng, “ Thật tiêu sái, Bích nhãn hồ tăng chẳng biện được.” Ngay cả Bích Nhãn Hồ tăng (Bồ Đề Đạt Ma) mà cũng khó phân biện được, các ông còn muốn sư núi này nói gì nữa?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31373)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26252)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27566)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27952)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26746)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20304)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22993)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30107)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21628)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20306)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22706)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20807)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30372)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28831)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34775)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44263)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35564)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22587)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21406)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20718)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24798)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37971)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19098)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21864)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20904)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29550)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28856)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32634)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26266)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28975)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43188)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34997)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44008)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21357)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43072)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49049)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39895)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53831)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36852)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40850)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49768)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47362)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27791)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27256)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20881)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34346)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22516)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25158)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25891)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22994)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22506)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21778)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21203)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant