Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Năm Mươi Sáu: Một Mũi Tên Phá Ba Ải Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15261)
Tắc thứ Năm Mươi Sáu: Một Mũi Tên Phá Ba Ải Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI SÁU

MỘT MŨI TÊN PHÁ BA ẢI CỦA KHÂM SƠN

 

THÙY: Chư Phật chưa từng xuất thế, cũng chẳng có Pháp trao người. Tổ Sư chưa từ Tây[6] đến, chẳng từng lấy tâm truyền thụ. Chỉ vì người đời không hiểu, cho nên mới tìm kiếm ở bên ngoài. Đâu có hay rằng một việc đại sự nhân duyên dưới chân mình, ngày bậc thánh cũng chẳng rờ rẫm ra được. Như giờ đây thấy với không thấy, nghe với không nghe, nói với không nói, biết với không biết, từ ở đâu đến vậy kìa? Nếu như các ông chưa hiểu thấu được, thì xin cố tìm hiểu trong dòng dâu dưa. Thử nêu lên xem.

CỬ: Lãng Thiền Khách hỏi Khâm Sơn, “Lúc một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Khâm Sơn nói, “đem vị chỉ huy trong ải ra đây xem!”Lãng Thiền Khách nói, “Như vậy có nghĩa là biết lỗi lầm phải sửa đổi.” Khâm Sơn nói, “Vậy thì còn đợi đến bao giờ nữa?” Lãng Thiền Khách nói, “Mũi tên bắn hay chẳng đúng đâu cả.” Rồi bỏ đi ra. Khâm Sơn nói, ”Thầy đến đây một chút coi.” Lãng Thiền Khách quay đầu lại, Khâm Sơn nắm lấy thầy ta nói, “Một mũi tên phá ba ải, tạm gác qua một bên. Ông thử bắn một mũi tên ra cho Khâm Sơn xem coi!” Lãng Thiền Khách định cãi, Khâm Sơn đã đánh cho bảy gậy rồi nói, “Ta sẵn sang nghe gã này nghi ngờ trong ba mươi năm nữa.”

BÌNH: Lãng Thiền Khách quả thật là một tay chiến tướng. Xoay trở trái phải trong tay Khâm Sơn, tránh rồi né vọt. Cuối cùng, đáng tiếc thay, cũng gẫy tên hết. Tuy thế đi nữa, “Lý tướng quân tuy có tiếng thơm song lại chẳng được phong hầu, cũng vô ích mà thôi.” Công án này có một lối ra một lối vào, một nắm giữ một buông tha. “đối cơ giáp mặt mà nêu lên, đối cơ giáp mặt thật nhanh.” Đều chẳng bị rơi vào hữu vô đắc thất. Đây gọi là “huyền cơ.” Nếu như thiếu chút sức mạnh thế nào cũng bị vấp ngã.

Ông tăng này cũng là một tay nạp tử[7] thông minh, câu hỏi đặt ra quả thật khiến thiên hạ kinh hồn. Khâm Sơn là tay chuyên gia trong tông môn của chúng ta, cho nên biết ngay cốt yếu câu hỏi của ông ta. “Khi một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Câu trả lời của Khâm Sơn ngụ ý, “Việc ông bắn thấu, hãy tạm gác qua một bên. Đem vị chỉ huy trong ải ra đây coi.” Lãng Thiền Khách nói, “Như vậy có nghĩa là biết lỗi lầm phải sửa điổ.” Quả thật là kỳ đặc. Khâm Sơn nói, “Vậy thì còn đợi đến bao giờ nữa?” Nhìn xem cách thầy ta trả lời. Câu hỏi của Khâm Sơn lại chẳng có chỗ sơ hở nào cả.

Cuối cùng Lãng Thiền Khách lại nói, “Mũi tên bắn hay chẳng trúng đâu cả, rồi rũ tay áo toan bỏ đi. Khâm Sơn lập tức gọi theo, “Thầy đến đây một chút coi!” Lãng Thiền Khách quả nhiên chưa nắm vững được, bèn quay đầu lại. Khâm Sơn nắm lấy thầy ta nói, “Một mũi tên phá ba ải, tạm gác qua một bên. Ông thử bắn ra một mũi tên cho Khâm Sơn xem coi!” Lãng Thiền Khách vừa toan lý luận, Khâm Sơn đã đánh cho bảy gậy. Tiếp theo đó lại mắng rằng, “Ta sẵn sàng nghe gã này nghi ngờ trong ba mươi năm nữa.”

Người học Thiền ngày nay đều hỏi, “Tại sao không đánh Lãng Thiền Khách tám gậy hay sáu gậy mà lại dùng bảy gậy thôi? Hoặc sao không đánh ngay sau khi hỏi thầy ta sao không thử bắn tên ra?” Nói như thế tuy có vẻ đúng song thật ra lại chẳng đúng. Muốn hiểu công án này thì phải không được giữ trong lòng bất cứ sự suy tình so đó nào, phải vượt ra ngoài ngôn ngữ. Lúc đó các ông mới có thể một câu mà phá được ba ải và có chỗ để mà bắn tên. Nếu như vẫn còn muôi lòng thị phi, chẳng bao giờ rờ rẫm ra được.

Lúc ấy nếu như ông tăng kia là một tay cừ thật thì hẳn Khâm Sơn cũng lâm nguy rồi.Bởi vì Lãng Thiền Khách không hành lệnh được, không khỏi bị bệnh hành. Song thử nói xem, vị chỉ huy trong ải rốt cuộc là ai? Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Đem vị giữ ải ra cho ông,

Những kẻ bắn tên đừng sơ hốt.

Lấy một mắt hề tai tất điếc,

Buông một tai hề đôi mắt mù.

Thương thay một tên phá ba ải,

rõ ràng ràng lối tên đi.

Há không nghe,

Huyền Sa có lời hề,

“Đại trượng phu tiên thiên làm tâm tổ.”

BÌNH: Mấy câu trong bài tụng này là rút từ một bài tụng của Qui Tông . Qui Tông ngày xưa vì làm bài tụng ấy mà có tên là Qui Tông. Trong tông môn của chúng ta, đây gọi là “nơi tông chỉ”. Sau này Đồng An nghe nói tới công án này, nói rằng, “Ông Lãng quả thật là khéo bắn tên,song không biết cách bắn cho trúng đích.” Có ông tăng hỏi, “ Như thế nào thì mới trúng đích được?” Đồng An nói, “ Vị chỉ huy ải là ai?” Sau này có ông tăng thuật lại cho Khâm Sơn, Khâm Sơn nói, “Ông Lãng dù là như thế cũng chưa tránh được miệng của Khâm Sơn. Tuy vậy, Đồng An cũng chẳng có ý tốt.”

Tuyết Đậu nói, “Đem vị giữ ải ra cho ông.” Mở mắt cũng thấy mà nhắm mắt cũng thấy. Hữu hình hay vô hình, cũng đều bị chặt ra thành ba khúc, “ Những kẻ bắn tên đừng sơ hốt.” Nếu khéo biết bắn tên thì không sơ hốt, nếu không biết khéo bắn tên thì thế nào cũng sơ hốt. Nên biết rằng,” Lấy một mắt hề tai tất điếc, buông một tai hề đôi mắt mù.” Thử nói xem, lấy một mắt thì tại sao tai lại điếc? Buông một tai tại sao đôi mắt lại mù? Phải không có cái tâm thủ xả thì mới hiểu thấu những lời này được. Nếu như có tâm thủ xả, ắt khó thấy vô cùng.

“Thương thay một tên phá ba ải, rõ rõ ràng ràng lối tên đi.” Lãng Thiền Khách hỏi, “Lúc một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Khâm Sơn nói,” Đem vị chỉ huy trong ải ra đây xem.” Những lời này mãi cho đến cuối công án của Đồng An chỉ là “đường tên bay” mà thôi. Rốt cuộc là gì? “Há không nghe, Huyền Sa có lời hề, “Đại trượng phu tiên hiên làm tâm tổ.’” Người ta thường coi tâm là tông của các tổ sư;Tại sao ở đây bậc chuyên gia lại là tân tổ ngay cả trước khi trời đất sinh ra? Nếu hiểu thấu được thời tiết này thì mới biết được vị chỉ huy trong ải.

“Rõ rõ ràng ràng đường tên bay.” Nếu như các ông muốn bắn trúng đích, thì rõ ràng có đường sau mũi tên. Song thử nói xem, thế nào là đường sau mũi tên? Cần phải có sức dùi mài mới được. “Đại trượng phu tiên thiên làm tâm tổ.” Huyền Sa thường dạy chúng bằng lời này. Đây là một câu tụng của Qui Tông, Tuyết Đậu lầm mà bảo là lời của Huyền Sa. Những người học Thiền bây giờ nếu lấy tâm này làm tổ tông, thì có tham Thiền cho đến lúc Phật Di Lặc hạ sinh cũng chưa hiểu được. Nếu như là bậc đại trượng phu, thì tâm vẫn cứ còn là con cháu. Thiên địa chưa phân, đã là phụ thứ rồi. Thử nói xem, đang lúc ấy thì thế nào là trước trời đất?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10367)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12335)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11641)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13006)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12371)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53030)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35482)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21388)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19236)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13312)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14376)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16072)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17571)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13116)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12519)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11600)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14503)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20467)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19561)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18650)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12182)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12307)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13857)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15024)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13988)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15509)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11392)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17189)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14975)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20194)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14611)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13837)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15056)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11647)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13165)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18339)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11494)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant