Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Tám: Huyền Sa Tiếp Vật Lợi Sinh

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15215)
Tắc thứ Tám Mươi Tám: Huyền Sa Tiếp Vật Lợi Sinh

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI TÁM

HUYỀN SA TIẾP VẬT LỢI SINH

 

THÙY: Các phương pháp của tông môn chúng ta là như vậy, phá hai làm ba. Muốn nhập lý tham đàm, cũng cần phải dùi mài mới được. Đối diện với cơ biến mà làm chủ chốt, phá vỡ xiềng xích vàng và các quan kiện huyền áo. Theo lệnh mà hành sự, tảo trừ tất cả các dấu vết. Thử nói xem, lúng túng ở chỗ nào? Thử nêu lên cho những người có mắt trên đỉnh đầu xem.

CỬ: Huyền Sa dạy chúng rằng, “Các bậc lão túc ở khắp nơi đều nói về việc tiếp vật lợi sinh. Hốt nhiên gặp phải ba loại người bệnh phải tiếp họ như thế nào? Gặp phải người mù thì dù mình có dơ trùy dựng phất trần họ cũng chẳng thấy. Gặp phải người điếc thì dù mình có nói về tam muội họ cũng chẳng nghe. Gặp phải người câm thì dù có bảo họ nói họ cũng chẳng nói được. Vậy thì phải tiếp những người ấy như thế nào? Nếu như không tiếp được, hóa ra Phật pháp không linh nghiệm sao?”

Có ông tăng hỏi Vân Môn về vấn đề trên, Vân Môn nói, “Ông lễ lậy đi cái đã.” Ông tăng lậy xong đứng dậy. Vân Môn lấy gậy thọc vào người ông tăng, ông tăng lui lại. Vân Môn nói, “Ông đâu có bị mù.” Rồi Vân Môn lại gọi ông ta bước đến gần, ông tăng bước đến gần. Vân Môn nói, “Ông đâu có bị điếc.” Vân Môn nói, “Ông có hiểu không?” Ông tăng nói, “Không hiểu.” Vân Môn nói, “Ông đâu có bị câm.” Ông tăng bèn tỉnh ngộ.

BÌNH: Huyền Sa tham Thiền đến mức độ cắt đứt tất cả các tính trần ý tưởng, tự tại thanh thoát, cho nên mới biết nói như vậy. Lúc ấy Thiền thịnh hành và các tự viện ngóng vọng lẫn nhau, Huyền Sa thường dạy chúng rằng, “Các bậc lão túc ở khắp nơi đều nói về việc tiếp vật lợi sinh. Hốt nhiên gặp phải ba loại người bệnh phải tiếp họ như thế nào? Gặp phải người mù thì dù mình có dơ trùy dựng phất trần họ cũng chẳng thấy. Gặp phải người điếc thì dù mình có nói về tam muội họ cũng chẳng nghe. Gặp phải người câm thì dù có boả họ nói họ cũng chẳng nói được. Vậy thì phải tiếp những người ấy như thế nào? Nếu như không tiếp được, hóa ra Phật pháp không linh nghiệm sao?” Người bây giờ mà hiểu theo lối mù điếc hay câm, rôt cuộc sẽ chẳng bao giờ mò mẫm cho ra. Cho nên mới có câu nói, “Đừng có chết trong ngôn ngữ.” Cần phải hiểu ý của Huyền Sa thì mới được.

Huyền Sa thường dùng lời này để tiếp người. Có một ông tăng ở với Huyền Sa rất lâu. Một hôm lúc Huyền Sa thượng đường, ông tăng kia hỏi, “Hòa thượng có cho phép đệ tử lập luận về lời nói về ba loại người bệnh không?” Huyền Sa nói, “Cho.” Ông tăng kia bèn chào từ biệt. Huyền Sa nói, “Sai, sai!” Ông tăng kia có hiểu được ý Huyền Sa không? Sau đó Pháp Nhãn nói, “ Lúc tôi nghe Địa Tạng Hòa Thượng thuật lại lời nói của ông tăng kia, tôi mới hiểu ý của lời nói về ba loại người bệnh.” Nếu như các ông bảo rằng ông tăng kia không hiểu, Pháp Nhãn tại sao lại nói như thế? Nếu như bảo rằng ông tăng kia hiểu, tại sao Huyền Sa lại nói, “ Sai, sai!”

Một hôm Địa Tạng nói, “Tôi nghe hòa thượnglời nói về ba loại người bệnh , có đúng vậy không?” Huyền Sa nói, “Phải”. Địa Tạng nói, “Tôi có nhãn nhĩ tỉ thiệt, hòa thượng làm sao để tiếp đây?” Huyền Sa bèn thôi. Nếu như các ông hiểu được ý của Huyền Sa, há có ở trong ngôn cú sao? Cái hiểu của Đại Tạng quả nhiên là đặc biệt.

Sau đó có ông tăng thuật lại câu chuyện trên cho Vân Môn. Vân Môn hiểu ngay ý của ông ta cho nên nói, “Ông lễ lậy đi cái đã.” Ông tăng lậy xong đứng dậy. Vân Môn lấy gậy thọc vào người ông tăng, ông tăng lui lại, Vân Môn nói, “Ông lễ lậy đi cái đã.” Ông tăng lậy xong đứng dậy. Vân Môn lấy gậy thọc vào người ông tăng, ông tăng lui lại.Vân Môn nói, “Ông đâu có bị mù.” Rồi Vân Môn lại gọi ông ta bước đến gần, ông tăng bước đến gần, Vân Môn nói, “Ông đâu có bị điếc.” Vân Môn nói, “Ông có hiểu không?” Ông tăng nói, “Không hiểu.” Vân Môn nói, “Ông đâu có bị câm.” Ông tăng bèn tỉnh ngộ. Nếu như ông tăng kia là một tay ngon lành thì ngay khi Vân Môn nói, “Ông lễ lậy đi cái đã,” bèn lật đổ ngay giường Thiền, để xem có còn có lắm dây dưa như thế nữa không? Song thử nói xem, chỗ hiểu của Vân Môn và chỗ hiểu của Huyền Sa là giống hay là khác? Chỗ hiểu của hai người ấy chỉ là cùng một loại.

Nhìn xem cách cổ nhân bầy ra ngàn vạn phương tiện. Ý nằm ở đầu lưỡi câu. Biết bao nhiêu là mệt mỏi cũng chỉ nhằm để những người thời nay hiểu được vấn đề này mà thôi. Ngũ Tổ Lão Sư nói, “Một người nói được song không hiểu, một người hiểu song lại nói không được. Nếu như hai người này đến tham kiến, làm sao để phân biện được họ đây?” Nếu như không phân biện được hai người này, các ông thế nào mà cởi gỡ các dính dấp cho thiên hạ được. Nếu như các ông phân biện được thì vừa thấy họ vào đến cổng, các ông đã có thể đi giầy trong bụng họ đến mấy vòng rồi. Nếu như các ông vẫn chưa tự tỉnh ngộ được, các ông đi tìm cái bát gì đây?”

Các ông đừng có hiểu theo lối mù điếc câm.Nếu như các ông so đo kiểu đó, đã có câu nói, “Mắt thấy sắc mà như mù, tai nghe thanh mà như điếc.” Lại có câu nói, “Đầy mắt không thấy sắc, đầy tai không nghe thanh. Văn Thù thường che mắt, Quan Âm luôn bịt tai.” Đến chỗ này rồi các ông phải thấy sắc mà như mù nghe thanh mà như điếc thì mới có thể không mâu thuẫn với ý của Huyền Sa được. Các ông có hiểu được ý của những kẻ mù điếc câm chăng? Nghe Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Đui mù câm điếc,

Tuyệt dứt cơ nghi.

Trên trời dưới trời,

Vui thay buồn thay.

Ly Lâu không biện chính sắc,

Sư Khoáng há hiểu huyền ty?

Sao bằng ngồi không dưới khung cửa,

Lá rụng hoa nở tự có thời.

Lại nói có hiểu hay không?

Trùy sắt không lỗ.

BÌNH: “Đui mù câm điếc, tuyệt dứt cơ nghi.” Tất cả những cái các ông thấy với không thấy, nghe với không nghe, nói với không nói, Tuyết Đậu một lúc quét sạch cả. Đến nỗi các kiến giải so đo theo kiểu đui mù câm điếc trong một lúc dứt bặt chẳng còn sử dụng được nữa. Sự việc hường thượng này có thể gọi là mù thật điếc thật câm thật vô cơ vô nghi.

“Trên trời dưới trời, vui thay buồn thay.” Tuyết Đậu một tay nâng lên một tay đè xuống. Thử nói xem vui cái gì? Buồn cái gì? Vui thay là vì câm là không câm, điếc mà không điếc, buồn thay là vì rõ ràng là không mù mà lại mù, rõ ràng là không điếc mà lại điếc.

“ Ly Lâu không biện chính sắc.” Nếu như không phân biện được xanh vàng trắng đỏ tức là mù. Ly Lâu là người thời Vua Hoàn Đế (ba ngàn năm trước công nguyên), cách xa ngoài một năm bộ vẫn có thể nhìn thấy đầu một sợi lông, có đôi mắt thật là sáng. Hoàng Đế đi chơi ở dòng sông Xích Thủy đánh rơi viên ngọc, sai Ly Lâu tìm mà tìm không được. Sai Khế Hậu tìm cũng tìm không thấy. Cuối cùng sai Tượng Võng tìm mới được. Cho nên mới có câu nói rằng, “Tượng Võng tìm mới được. Cho nên mới có câu nói rằng, “Tượng Võng lúc nào cũng sáng lạn, Ly Lạu hành trạng như sóng cao.” Ở chỗ cao vợi này ngay cả Ly Lâu để mắt nhìn mà cũng không phân biện được chính sắc.

“Sư Khoáng há hiểu huyền ty?” Thời nhà Châu (một ngàn năm trước công nguyên) Tấn Cảnh Công có người tên là Sư Khoáng tự là Tử Dã, khéo phân biện ngũ âm lục luật. Sư Khoáng có thể nghe thấy tiếng kiến đánh nhau phía bên kia ngọn núi. Lúc ấy Tấn và Sở tranh bá. Sư Khoáng chỉ còn biết đánh đờn phát khởi đề cung biết rằng Sở không thể nào thắng được. Tuy rằng Sư Khoáng có khả năng như thế, Tuyết Đậu vẫn nói rằng Sư Khoáng vẫn chưa hiểu huyền ty. Những người không điếc mà điếc, đối với cái âm thanh huyền diệu nơi cao này, thì cho dù là Sư Khoáng đi nữa cũng không hiểu được.

Tuyết Đậu nói, “Tôi không làm Ly Lâu cũng chẳng làm Sư Khoáng, sao bằng ngồi không dưới khung cửa? Lá rơi hoa nở tự có thời.” Nếu như đến cảnh giới này, tuy rằng nghe mà cũng giống như không nghe, tuy rằng thấy mà cũng giống như không thấy, tuy rằng nói mà cũng giống như không nói. Lúc đói thì ăn lúc mệt thì nằm ngủ. Để mặc lá rụng hoa nở. Lúc lá rụng là thu, lúc hoa nở là xuân, mọi cái tự có thời tiết của nó.

Sau khi đã quét sạch cả cho các ông, Tuyết Đậu lại đặt ra một con đường nói rằng, “Có hiểu hay không?” Tuyết Đậu sức kiệt tinh thần mệt mỏi; chỉ nói được rằng “trùy sắt không lỗ.” Câu này các ông phải mai để mắt nhìn thì mới thấy được. Nếu như toan lý luận là các ông lại để lỡ mất nó ngay.

Viên Ngộphất trần lên nói, “Các ông có thấy không?” Rồi lại đạp lên giường Thiền một cái , nói, “Các ông có nghe không?” Rồi lại bước xuống khỏi giường nói, “Các ông có nói được không?”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10399)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28821)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11455)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53087)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21413)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19261)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12427)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26057)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13327)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14394)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13141)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11619)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11631)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14517)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20494)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18672)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12201)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13872)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15048)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14003)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11410)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17204)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14987)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20226)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14630)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13859)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15075)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13006)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22900)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11675)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13178)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18355)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11511)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12896)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18437)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant