Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Năm Mươi Sáu: Một Mũi Tên Phá Ba Ải Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15245)
Tắc thứ Năm Mươi Sáu: Một Mũi Tên Phá Ba Ải Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI SÁU

MỘT MŨI TÊN PHÁ BA ẢI CỦA KHÂM SƠN

 

THÙY: Chư Phật chưa từng xuất thế, cũng chẳng có Pháp trao người. Tổ Sư chưa từ Tây[6] đến, chẳng từng lấy tâm truyền thụ. Chỉ vì người đời không hiểu, cho nên mới tìm kiếm ở bên ngoài. Đâu có hay rằng một việc đại sự nhân duyên dưới chân mình, ngày bậc thánh cũng chẳng rờ rẫm ra được. Như giờ đây thấy với không thấy, nghe với không nghe, nói với không nói, biết với không biết, từ ở đâu đến vậy kìa? Nếu như các ông chưa hiểu thấu được, thì xin cố tìm hiểu trong dòng dâu dưa. Thử nêu lên xem.

CỬ: Lãng Thiền Khách hỏi Khâm Sơn, “Lúc một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Khâm Sơn nói, “đem vị chỉ huy trong ải ra đây xem!”Lãng Thiền Khách nói, “Như vậy có nghĩa là biết lỗi lầm phải sửa đổi.” Khâm Sơn nói, “Vậy thì còn đợi đến bao giờ nữa?” Lãng Thiền Khách nói, “Mũi tên bắn hay chẳng đúng đâu cả.” Rồi bỏ đi ra. Khâm Sơn nói, ”Thầy đến đây một chút coi.” Lãng Thiền Khách quay đầu lại, Khâm Sơn nắm lấy thầy ta nói, “Một mũi tên phá ba ải, tạm gác qua một bên. Ông thử bắn một mũi tên ra cho Khâm Sơn xem coi!” Lãng Thiền Khách định cãi, Khâm Sơn đã đánh cho bảy gậy rồi nói, “Ta sẵn sang nghe gã này nghi ngờ trong ba mươi năm nữa.”

BÌNH: Lãng Thiền Khách quả thật là một tay chiến tướng. Xoay trở trái phải trong tay Khâm Sơn, tránh rồi né vọt. Cuối cùng, đáng tiếc thay, cũng gẫy tên hết. Tuy thế đi nữa, “Lý tướng quân tuy có tiếng thơm song lại chẳng được phong hầu, cũng vô ích mà thôi.” Công án này có một lối ra một lối vào, một nắm giữ một buông tha. “đối cơ giáp mặt mà nêu lên, đối cơ giáp mặt thật nhanh.” Đều chẳng bị rơi vào hữu vô đắc thất. Đây gọi là “huyền cơ.” Nếu như thiếu chút sức mạnh thế nào cũng bị vấp ngã.

Ông tăng này cũng là một tay nạp tử[7] thông minh, câu hỏi đặt ra quả thật khiến thiên hạ kinh hồn. Khâm Sơn là tay chuyên gia trong tông môn của chúng ta, cho nên biết ngay cốt yếu câu hỏi của ông ta. “Khi một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Câu trả lời của Khâm Sơn ngụ ý, “Việc ông bắn thấu, hãy tạm gác qua một bên. Đem vị chỉ huy trong ải ra đây coi.” Lãng Thiền Khách nói, “Như vậy có nghĩa là biết lỗi lầm phải sửa điổ.” Quả thật là kỳ đặc. Khâm Sơn nói, “Vậy thì còn đợi đến bao giờ nữa?” Nhìn xem cách thầy ta trả lời. Câu hỏi của Khâm Sơn lại chẳng có chỗ sơ hở nào cả.

Cuối cùng Lãng Thiền Khách lại nói, “Mũi tên bắn hay chẳng trúng đâu cả, rồi rũ tay áo toan bỏ đi. Khâm Sơn lập tức gọi theo, “Thầy đến đây một chút coi!” Lãng Thiền Khách quả nhiên chưa nắm vững được, bèn quay đầu lại. Khâm Sơn nắm lấy thầy ta nói, “Một mũi tên phá ba ải, tạm gác qua một bên. Ông thử bắn ra một mũi tên cho Khâm Sơn xem coi!” Lãng Thiền Khách vừa toan lý luận, Khâm Sơn đã đánh cho bảy gậy. Tiếp theo đó lại mắng rằng, “Ta sẵn sàng nghe gã này nghi ngờ trong ba mươi năm nữa.”

Người học Thiền ngày nay đều hỏi, “Tại sao không đánh Lãng Thiền Khách tám gậy hay sáu gậy mà lại dùng bảy gậy thôi? Hoặc sao không đánh ngay sau khi hỏi thầy ta sao không thử bắn tên ra?” Nói như thế tuy có vẻ đúng song thật ra lại chẳng đúng. Muốn hiểu công án này thì phải không được giữ trong lòng bất cứ sự suy tình so đó nào, phải vượt ra ngoài ngôn ngữ. Lúc đó các ông mới có thể một câu mà phá được ba ải và có chỗ để mà bắn tên. Nếu như vẫn còn muôi lòng thị phi, chẳng bao giờ rờ rẫm ra được.

Lúc ấy nếu như ông tăng kia là một tay cừ thật thì hẳn Khâm Sơn cũng lâm nguy rồi.Bởi vì Lãng Thiền Khách không hành lệnh được, không khỏi bị bệnh hành. Song thử nói xem, vị chỉ huy trong ải rốt cuộc là ai? Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Đem vị giữ ải ra cho ông,

Những kẻ bắn tên đừng sơ hốt.

Lấy một mắt hề tai tất điếc,

Buông một tai hề đôi mắt mù.

Thương thay một tên phá ba ải,

rõ ràng ràng lối tên đi.

Há không nghe,

Huyền Sa có lời hề,

“Đại trượng phu tiên thiên làm tâm tổ.”

BÌNH: Mấy câu trong bài tụng này là rút từ một bài tụng của Qui Tông . Qui Tông ngày xưa vì làm bài tụng ấy mà có tên là Qui Tông. Trong tông môn của chúng ta, đây gọi là “nơi tông chỉ”. Sau này Đồng An nghe nói tới công án này, nói rằng, “Ông Lãng quả thật là khéo bắn tên,song không biết cách bắn cho trúng đích.” Có ông tăng hỏi, “ Như thế nào thì mới trúng đích được?” Đồng An nói, “ Vị chỉ huy ải là ai?” Sau này có ông tăng thuật lại cho Khâm Sơn, Khâm Sơn nói, “Ông Lãng dù là như thế cũng chưa tránh được miệng của Khâm Sơn. Tuy vậy, Đồng An cũng chẳng có ý tốt.”

Tuyết Đậu nói, “Đem vị giữ ải ra cho ông.” Mở mắt cũng thấy mà nhắm mắt cũng thấy. Hữu hình hay vô hình, cũng đều bị chặt ra thành ba khúc, “ Những kẻ bắn tên đừng sơ hốt.” Nếu khéo biết bắn tên thì không sơ hốt, nếu không biết khéo bắn tên thì thế nào cũng sơ hốt. Nên biết rằng,” Lấy một mắt hề tai tất điếc, buông một tai hề đôi mắt mù.” Thử nói xem, lấy một mắt thì tại sao tai lại điếc? Buông một tai tại sao đôi mắt lại mù? Phải không có cái tâm thủ xả thì mới hiểu thấu những lời này được. Nếu như có tâm thủ xả, ắt khó thấy vô cùng.

“Thương thay một tên phá ba ải, rõ rõ ràng ràng lối tên đi.” Lãng Thiền Khách hỏi, “Lúc một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Khâm Sơn nói,” Đem vị chỉ huy trong ải ra đây xem.” Những lời này mãi cho đến cuối công án của Đồng An chỉ là “đường tên bay” mà thôi. Rốt cuộc là gì? “Há không nghe, Huyền Sa có lời hề, “Đại trượng phu tiên hiên làm tâm tổ.’” Người ta thường coi tâm là tông của các tổ sư;Tại sao ở đây bậc chuyên gia lại là tân tổ ngay cả trước khi trời đất sinh ra? Nếu hiểu thấu được thời tiết này thì mới biết được vị chỉ huy trong ải.

“Rõ rõ ràng ràng đường tên bay.” Nếu như các ông muốn bắn trúng đích, thì rõ ràng có đường sau mũi tên. Song thử nói xem, thế nào là đường sau mũi tên? Cần phải có sức dùi mài mới được. “Đại trượng phu tiên thiên làm tâm tổ.” Huyền Sa thường dạy chúng bằng lời này. Đây là một câu tụng của Qui Tông, Tuyết Đậu lầm mà bảo là lời của Huyền Sa. Những người học Thiền bây giờ nếu lấy tâm này làm tổ tông, thì có tham Thiền cho đến lúc Phật Di Lặc hạ sinh cũng chưa hiểu được. Nếu như là bậc đại trượng phu, thì tâm vẫn cứ còn là con cháu. Thiên địa chưa phân, đã là phụ thứ rồi. Thử nói xem, đang lúc ấy thì thế nào là trước trời đất?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33141)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6524)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11249)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30389)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30426)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7964)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11582)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12789)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34723)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52243)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10697)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10449)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13061)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16246)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21813)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9600)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7107)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10372)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12722)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12762)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16211)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16512)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13838)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16563)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13788)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14305)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9180)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11731)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16284)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15650)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12611)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14981)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13118)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14517)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20662)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13200)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10928)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20679)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14335)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20347)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17635)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31848)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12008)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant