Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Bốn: Bất Nhị Pháp Môn Của Duy Ma cật

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15853)
Tắc thứ Tám Mươi Bốn: Bất Nhị Pháp Môn Của Duy Ma cật

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI BỐN

BẤT NHỊ PHÁP MÔN CỦA DUY MA CẬT

 

THÙY: Tuy rằng nói “có” song chẳng có gì để mà xác nhận là “có”. Tuy rằng nói “không” song cũng chẳng có gì để phủ nhận là “không” được cả. Gạt bỏ thị phi, quên cả đắc thất, lúc ấy mới có thể thánh thoát tự tại. Song thử nói xem, trước mắt và sau lưng các ông là cái gì vậy? Nếu như có nạp tăng nào bước ra nói, “trước mắt là Phật điện tam quan,sau lưng là phòng ngủ phương trượng.” Thử nói xem, người ấy có mắt hay không? Nếu như các ông phân biện được người ấy, tôi công nhận rằng các ông đã thân cận được với cổ nhân rồi đấy.

CỬ: Duy Nam Cật hỏi Văn Thù Sư Lợi, “Thế nào là Bồ Tát nhập nhị pháp môn?” Văn Thù nói, “Theo ý tôi thì ở nơi tất cả các pháp vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, ly ngôn vấn đáp, đó chính là nhập bất nhị pháp môn.” Rồi Văn thù Sư Lợi lại hỏi Duy Ma Cật, “Chúng tôi ai nấy đều nói cả rồi, bây giờ nhân giả thử nói cho chúng tôi nghe xem thế nào là Bồ Tát nhập bất nhị pháp môn?”

Tuyết Đậu nói, “Duy Ma Cật nói gì vậy?” Lại nói, “Khám phá ra rồi.”

BÌNH: Duy Ma Cật khiến các đại Bồ Tát mọi người nói về bất nhị pháp môn. Lúc ấy ba mươi hai vị Bồ Tát đều lấy nhị kiến hữu vivô vi, chân đếnhị đế, họp lại thành một kiến và xem đó là bất nhị pháp môn. Cuối cùng Duy Ma Cật hỏi Văn Thù. Văn Thù nói,” Theo ý tôi thì ở nơi tất cả các pháp vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, ly ngôn vấn đáp, đó chính là bất nhị pháp môn. ”Bởi vì ba mươi hai vị Bồ tát kia dùng ngôn ngữ để phủ nhận ngôn ngữ, Văn Thù mới lấy vô ngôn để phủ nhận ngôn ngữ. Một lúc quét sạch tất cả, không chấp nhận bất cứ gì, vì giải thích đó là bất nhị pháp môn. Đâu có dè rằng đó cũng giống như con rùa thiêng kéo lê cái đuôi để quét bụi, tuy quét sạch bụi song vẫn để lại dấu tích. Giống như cái chổi quét sạch bụi, song lại để lại vết chổi.

Cuối cùng, vẫn còn dấu tích như trước, Văn Thù hỏi Duy Ma Cật, “ chúng tôi ai nấy đều nói cả rồi, bây giờ nhân giả thử nói cho chúng tôi nghe xem thế nào là Bố Tát nhập bất nhị pháp môn?” Duy Ma Cật im lặng. Nếu như là người sống chẳng ai lại đi vào nước chết mà chìm đắm. Nếu như các ông có những kiến giải như thế, thì cũng giống như con chó điên đuổi thao khối đất mà thôi. Tuyết Đậu không nói rằng Duy Ma Cật im lặng, cũng chẳng nói rằng Duy Ma Cật ngồi yến nơi ghế. Chỉ nói ngay rằng, “Duy Ma Cật nói gì vậy?” Lúc Tuyết Đậu nói như thế, thầy ta có thấy Duy Ma Cật chăng? Cho dù trong mộng cũng chẳng thấy được.

Duy Ma Cật là bậc cổ Phật trong quá khứ, có quyến thuộc. Giúp đức Phật tuyên hóa. Duy Ma Cậtbiện tài bất khả tư nghi, có cảnh giới bất khả tư nghị, có thần thông diệu dụng bất khả tư nghị. Chỉ trong phòng của mình mà Duy Ma Cật chứa được ba vạn hai ngàn sư tử bảo tòa, cùng với tám vạn đại chúng mà vẫn chẳng rộng chẳng hẹp. Thử nói xem đây là đạo lý gì vậy? Có thể gọi là thần thông diệu dụng được chăng? Đừng hiểu lầm, Nếu đó là bất nhị pháp môn, thì phải đồng đắc đồng chứng mới có thể cùng biết được.

Chỉ có Văn Thù là có thể trả lời được. Tuy rằng thế, song có tránh được sư phê bình của Tuyết Đậu không? Tuyết Đậu nói như vậy, cũng cần phải gặp mặt hai người kia. Tuyết Đậu nói như vậy, cũng cần phải gặp mặt hai người kia. Tuyết Đậu nói, “Duy Ma Cật nói gì vậy?” và “Khám phá rồi.” Các ông thử nói xem chỗ nào là chỗ khám phá ra? Việc này chẳng câu nệ nơi đắc thất, chẳng rơi vào chỗ thị phi. Cũng giống như trên vách đá vạn trượng, nếu như các ông dám buông bỏ tính mạng mà nhảy, thì các ông mới co 1thể gặp Duy Ma Cật được. Nếu như các ông không buông bỏ được thì các ông không buông bỏ được thì các ông cũng giống như con dê húc vào hàng dậu. Tuyết Đậu đương nhiên là người dám xả bỏ tính mạng, cho nên thầy ta mới tụng rằng:

TỤNG

Hét lão Duy Ma này,

Từ bi buồn vô ích.

Ốm nơi thành Vệ Xá,

Toàn thân khô héo đi.

Thầy của bẩy Phật tới,

Một phòng quét sạch mãi,

Hỏi bất nhị pháp môn.

Lập tức dựa rồi ngã.

Không dựa ngã,

Kim mao sư tử không chỗ tìm.

BÌNH: Tuyết Đậu nói, “Hét lão Duy Ma này.” Tại sao lại mở đầu bằng cách hét Duy Ma như thế? Tuyết Đậu từ đầu đã dùng ngay Kim Cương Vương Bảo Kiếm cắt đứt. Duy Ma cần phải bị đánh ba ngàn gậy buổi sáng, tám trăm gậy buổi chiều. Chử Phạn Duy Ma Cật (Vimalakìrti) dịch ra tiếng Trung Hoa là “Vô Cấu Xưng,” hay là “Tịnh Danh.” Cũng còn được gọi là Kim Túc Như Lai của thời quá khứ. Há không nghe có ông tăng hỏi Vân Cư Giản Hòa Thượng, “Đã là Kim Túc Như Lai,tại sao lại còn phải nghe Pháp trong hội của Thích Ca Như Lai?” Giản Hòa Thượng nói,”Bởi vì Duy Ma không tranh nhân ngã. Bậc đạo giải thoát không câu nệ việc ‘thành Phật” với lại không thành Phật.” Nếu như bảo rằng người ấy tu hành để cố gắng thành Phật thì lại càng chẳng có gì nhằm nhò cả.” Kinh Viên Giác nói, “ Lấy tâm luân hồi sinh kiến chấp luân hồi để mà vào biển lớn tịch diệt của Như Lai thì mãi mãi chẳng bao giờ được.”

Vĩnh Gia nói, “ thị hay phi chẳng ai biết, nghịch hành thuận hành trời chẳng dò. Nếu thuận hành thì đi vào quả vị Phật, nếu nghịch hành thì nhập chúng sinh cảnh.” Thọ Thiền Sư nói, “Dù cho các ông có tôi luyện rồi đạt đến mức độ này đi nữa, các ông vẫn chưa có thể thuận theo ý mình được. Chỉ khi nào các ông chứng được vô lậu thánh thân, các ông mới bắt đầu tha hồ thuận hành hay nghịch hành được.” Cho nên Tuyết Đậu nói, “Từ bi không ảo não.” Trong Kinh Duy Ma Cật nói, “Bởi vì chúng sinh có bệnh cho nên tôi cũng có bệnh.” Tuyết Đậu nói, “Ốm nơi thành vệ Xá,” bởi vì Duy Ma Cật thị tật ở thành Vệ Xá (Vaisali).

“Toàn thân khô héo đi.” Bởi vì Duy Ma Cật dùng thân bệnh để mà rộng thuyết Pháp rằng, “Thân này vô thường, vơ cường vô lực, vô kiến và chóng bại hoại. Không thể nào nương cậy vào nó được. Nó gây khổ gây não và là nơi các thứ bệnh hoạn tụ tập. Nó chỉ là do uẩn, xứ và giới tập hợp lại thành mà thôi.”

“Thầy của bẩy Phật tới.” Văn Thùtổ sư của bẩy Phật, tuân theo lời dạy của đức Thế Tôn đến đó mà hỏi thăm bệnh của Duy Ma Cật,” Một phòng quét sạch mãi?” Duy Ma Cật cho dọn dẹp tất cả mọi thứ trong phòng đi chỉ để lại mỗi một cái giường mà thôi. Lúc Văn Thù đến lại hỏi về bất nhị pháp môn, cho nên Tuyết Đậu nói, “Hỏi bất nhị pháp môn.” “Lập tức dựa rồi ngã.” Miệng Duy Ma Cật cong như cái gánh. Những kẻ học Thiền ngày nay nói rằng, "Không nói gì tức là dựa và ngã.” Song đừng có nhận lầm điểm giữa cán cân.

Tuyết Đậu dồng các ông lên đỉnh cao vạn trượng rồi nói, “Không dựa ngã.” Đúng là một tay ấn xuống một tay kéo lên. Thầy ta có thứ khả năng này mà lại sử dụng được một cách rất là vi diệu. Đây là để tụng lời niêm “Duy Ma Cật nói gì vậy?”

“Kim Mao Sư tử không chỗ tìm.” Không phải chỉ lúc ấy mà ngay bây giờ cũng thế. Các ông còn thấy lão Duy Ma chăng? Dù cho tất cả sơn hà đại địa thảo mộc rừng rậm biến thánh kim mao sư tử, các ông cũng chẳng rờ rẫm ra.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49719)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34616)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43910)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47546)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38467)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52924)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36591)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32234)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40449)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31440)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46699)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36179)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28686)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29217)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31881)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28804)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33351)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29117)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60971)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39726)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26653)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29646)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37357)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26828)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28278)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34613)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30462)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28552)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30059)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25476)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21839)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26710)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27691)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30175)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27691)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35428)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27434)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31762)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23012)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant