Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Bảy: Thể Lộ Kim Phong Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15697)
Tắc thứ Hai Mươi Bảy: Thể Lộ Kim Phong Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI BẢY

THỂ LỘ KIM PHONG CỦA VÂN MÔN

 

THÙY:Hỏi một đáp mười. Nêu một rõ ba. Thấy thỏ thả ưng, nhân gió thổi lửa, không tiếc lông mày. Điều này tạm để qua một bên. Lúc vào hang cọp thì như thế nào? Thử nêu lên xem.

CỬ:Lúc cây khô lá rụng thì như thế nào? Vân Môn nói, “Thể lộ kim phong.”[11]

BÌNH: Nếu như vào được chỗ này, sẽ thấy được chỗ vì người của Vân Môn. Nếu như vẫn chưa như thế được, thì vẫn cứ chỉ nai mà bảo là ngựa như trước. Mắt đui tai điếc, ai là người đến cảnh giới này? Thử nói xem, Vân Môn có ý đáp câu hỏi của ông tăng kia, hay là có ý xướng họa với ông? Nếu như bảo là đáp câu hỏi của ông tăng,thì các ông quả là lầm lẫn bám vào điểm giữa của cán cân. Nếu như bảoVân Môn xướng họa với ông tăng, thì chẳng có gì là đúng cả. Nếu đã không như thế, thì cứu cánh là như thế nào? Nếu như các ông thấy rõ được, thì mũi của các nạp tăng cũng chẳng đáng để nắm. Còn nếu vẫn chưa như thế được, thì các ông vẫn cứ lạc vào hang mà như cũ.

Phàm việc phù trì và xây dựng tông thừa, cần phải đưa toàn than ra mà vác gánh nặng, không tiếc lông mày, dám nằm ngang trước miệng cọp, để nó kéo lê ngang dọc. Nếu không như thế, thì làm sao mà vì người khác được? Ông tăng này đặt câu hỏi quả thật là nguy hiểm vời vợi. Nếu nhìn ông ta từ quan điểm của những việc tầm thường, ông ta chỉ giống như một ông tăng vướng vào những chuyện vớ vẫn không đâu. Song nếu dựa vào tông môn của các nạp tăng rồi bắt mạch mà quan sát, ông ta quả thật có điểm kỳ diệu. Nhưng mà thử nói xem, lúc cây khô lá rụng thì đó là cảnh giới của ai? Trong mười tám lối đặt câu hỏi thì đây được gọi là “ biện chủ vấn.” Cũng được gọi là “ tá sự vấn” ( mượn sự mà hỏi).

Vân Môn chẳng di dịch một tơ hào, chỉ nói với ông tăng, “Thể lộ kim phong.” Vân Môn đáp một cách hết sức kỳ diệu mà còn không cô phụ câu hỏi của ông tăng. Bởi vì câu hỏi của ông tăng có mắt, câu đáp của Vân Môn cũng hết sức sắc bén. Cổ nhân nói, “ Muốn đạt đến chỗ thân thiết thì dừng đem câu hỏi đến mà hỏi.” Nếu như là tri âm, thì người kia vừa nêu lên, mình đã hiểu ngay ý hướng. Nếu như các ông đi vào ngữ mạch của Vân Môntìm kiếm , lập tức các ông lầm lẫn. Chỉ có điều là trong câu của Vân Môn có chỗ thường khiến cho người ta đưa ra những kiến giải thiên chấp. Nếu như tôi dùng thiên kiến ra mà hiểu Vân Môn, thật khó tránh mà tuyệt hết con cháu.

Vân Môn thích cưỡi ngựa của kẻ trộm để đuổi kẻ trộm. Há không nghe có ông tăng hỏi Vân Môn, “Thế nào là chỗ không có tư lương?” Vân Môn nói, “ tình thức khó dò”. Ông tăng lại hỏi, “ Lúc cây khô lá rụng thì như thế nào?” Vân Môn nói, “Thể lộ kim phong,” Trong câu của Vân Môn quả thật cắt đứt hết cầu nối, thẳng thông thánh phàm. Cần phải hiểu cách nêu một rõ ba nêu ba rõ một của thầy ta, nếu như các ông đi tìm trong ba câu của Vân Môn thì có khác gì nhổ tên ở sau đầu. Trong một câu của Vân Môn có đủ cả ba câu: câu bao gồm trời đất, câu đuổi theo song nước, câu cắt đứt hết các dòng (tư tưởng), phù hợp với nhau một cách tự nhiên. Trong ba câu này, thử nói xem Vân Môn dùng câu nào để tiếp thiên hạ? Thử phân biện xem sao. Tụng rằng:

TỤNG

Hỏi đã có tông,

Đáp cũng toàn đồng.

Ba câu biện được,

Một tên trên không.

Đồng lớn hề gió lạnh vùn vụt,

Trời cao hề mưa bụi lãng đãng.

Người thấy chăng Thiếu Lâm ngồi lâu khách chưa về,

Hùng Nhĩ êm đềm một tùng lâm.

BÌNH:Cổ nhân nói, “Nghe lời phải hiểu tông, đừng tự lập qui củ.” Lời của cổ nhân không phải là bày ra một cách rỗng tuếch. Cho nên mới có câu nói, “Phàm khi hỏi về một việc gì, cũng cần phải có chút hiểu biết về đúng sai, Nếu như không biết tôn ti, mở miệng nói bừa, có ích lợi gì đâu?” Phàm mỗi khi nói ra một lời gì bày tỏ ra một điều gì, cần phải như kềm như kẹp, có câu có móc, phải tương tục bất đoan. Chỗ hỏi của ông tăng này có tông chỉ. Chỗ đáp của Vân Môn cũng thế. Vân Môn thường dùng ba câu mà tiếp thiên hạ, đây chính là cực tắc vậy.

Tụng của Tuyết Đậu về công án này là cùng một loại với tụng về công án Đại Long. “ Ba câu biện được.” Trong một câu có đủ cả ba câu. Nếu như biện được, ắt thấu qua được ba câu. “Một tên trên không”. Mũi tên bắn ra quá xa cho nên các ông phải đưa mắt ra nhìn thật nhanh thì mới bắt kịp. Nếu như các ông thấy được rõ rang, thì trong một câu các ông có thể khai mở được cả đại thiền thế giới. Bài tụng rộng them ra rằng, “Đồng lớn hề gió lạnh vùn vụt, trời cao hề mưa bụi lãng đãng.” Thử nói xem, đây là tâm hay cảnh? Huyền hay diệu? Cổ nhân nói, “ Pháp pháp chẳng ẩn tang, cổ kim thường hiển lộ.”

Ông tăng hỏi, “ Lúc cây khô lá rụng thì như thế nào?” Vân Môn nói, “ Thể lộ kim phong.” Ý của Tuyết Đậu là chỉ để tạo nên một cảnh. Như hiện giờ trước mắt, gió thổi hiu hiu, không phải gìo đông nam thì cũng là gío tây bắc. Song cần phải hiểu như thế mới được. Nếu như các ông bày đặc hiểu theo Thiền đạo, thì chẳng có gì là đúng cả.

“Người thấy chăng Thiếu Lâm ngồi lâu khách chưa về.” Đạt Ma trước khi trở về Tây Thiên chín năm ngồi yên lặng quay mặt vào tường. Thử nói xem, phải chăng đây là cây khô lá rụng? Thử nói xem, phải chăng đây là thể lộ kim phong? Nếu như có thể ở đây mà hợp thành một thể cả cổ kim phàm thánh càn khôn đại địa, thì mới có thể thấy được chỗ vì người của Tuyết Đậu. “ Hùng Nhĩ êm đềm một tùng lâm.” Hùng Nhĩ tức là Tây Kinh Tung Sơn Thiếu Lâm. Trước núi cũng ngàn tùng vạn tùng, sau núi cũng ngàn tùng vạn tùng. Các ông phải thấy ở chỗ nào đây? Có thấy chỗ vì người của Tuyết Đậu không? Cũng chỉ là con rùa linh kéo lê cái đuôi mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49714)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34612)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33431)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43903)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57028)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47539)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39413)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38455)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52913)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36588)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32229)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40436)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43463)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31438)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46694)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36166)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28682)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29212)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31867)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28795)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33344)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29112)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60967)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39720)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26643)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29639)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37343)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40071)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28274)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28884)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26176)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27793)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30453)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33262)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28546)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30057)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25475)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21834)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26708)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28601)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27687)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24341)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27449)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27680)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35412)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27429)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29994)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31750)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22998)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24168)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23008)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant