Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười: Ba Tiếng Hét Của Mục Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15441)
Tắc thứ Mười: Ba Tiếng Hét Của Mục Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ MƯỜI

BA TIẾNG HÉT CỦA MỤC CHÂU 

 

THÙY: Như vầy như vầy, không như vầy không như vầy. Luận việc chiến, ai cũng nắm chỗ then chốt. Cho nên mới có câu nói, “Nếu như hướng thượng mà đi, thì ngay cả Thích Ca , Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, ngàn vạn bậc thánh, và các bậc tông sư trong thiên hạ đều phải ngậm miệng ấm ức cả. Nếu hướng hạ mà đi, thì côn trùng giòi bọ cùng tất cả mọi sinh vật đều phóng đại quang minh, mọi vật đều vươn mình như núi cao vạn trượng.” Nếu như không hướng thượng mà cũng cũng không hướng hạ thì sao? Nếu có nguyên tắc thì dựa vào nguyên tắc, nếu không có nguyên tắc dựa vào thông lệ. Thử nêu ra xem.

CỬ: Mục Châu hỏi ông tăng, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng bèn hét. Mục Châu nói, “Lão tang bị ông hét một lần.” Ông tăng lại hét nữa. Mục Châu nói, “Ba bốn tiếng hét, sau đó thì sao?” Ông tăng không nói gì được. Mục Châu bèn đánh rồi nói, “Cái gã vô tích sự này.”

BÌNH: Bất cứ ai muốn chống giữ tông môn của chúng ta đều cần phải có đôi mắt của bậc tông sư cũng như khả năng của bậc tông sư. Mục Châu linh hoạt sắc bén, như thể điện chớp, thích thử mấy vị tòa chủ. Thường thì một lời hay nửa câu mà thầy ta thốt ra , đều giống như các bụi gai góc, không thể nào mà dẫm chân sờ tay vào được. Mỗi khi có ông tăng nào đến liền nói, “ Công án đã thành, tha cho ông ba chục gậy.’ Hoặc thấy có ông tăng nào đến, Mục Châu liền gọi, “Thượng tọa!” Ông tăng vừa quay lại, Mục Châu lại nói, “Đồ khiêng gỗ”. Mỗi lúc dạy chúng lại thường nói, “ Chưa có chỗ vào, cần phải tìm chỗ ra chỗ vào. Đã có chỗ vào rồi, không được phụ lòng lão tăng.” Mục Châu vì người khác thường là như vậy cả.

Ông tăng này cũng điêu luyện lắm, có điều đầu rồng đuôi rắn. Lúc ấy nếu không phải là Mục Châu bất cứ người nào khác hẳn đã bị ông ta làm cho lúng túng một phen rồi. Chẳng hạn như lúc Mục Châu hỏi ông ta, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng bèn hét. Thử hỏi xem, ý ông ta là thế nào? Song lão hán này lại chẳng vội vàng mà vẫn thong thả nói, “ Lão tăng bị ông hét một lần.” Tựa như một mặt chấp nhận lời ông tăng một mặt thử thách ông ta, nghiêng mình nhìn xem ông ta như thế nào. Một lần nữa ông tăng lại hét, ông ta có vẻ đúng song thật ra lại chẳng đúng. Ông ta kể như đã bị Mục Châu xỏ lỗ mũi khi lão hán này hỏi, “ Ba bốn tiếng hét , sau đó thì sao?” Ông tăng này quả nhiên không nói gì được. Mục Châu bèn đánh rồi nói, “ Cái gã vô tích sự này.”

Thử người rốt ráo thật, há miệng đã tri âm. Đáng tiếc thay, ông tăng này lại không nói được gì, khiến Mục Châu phải gọi ông ta là gã vô tích sự. Nếu như các ông bị Mục Châu hỏi, “ Ba bốn tiếng hét, sau đó thì sao?” Các ông phải trả lời thế nào để khỏi bị Mục Châu gọi là đồ vô tích sự? Nếu như là bậc biết còn mất, phân biệt được đúng sai, chân đứng trên sự thật, ai thèm lo sau ba bốn tiếng hét thì sao. Song chỉ vì ông tăng này không nói gì được, cho nên mới bị lão hán này dựa trênkết thúc được cho nên mới bị lão hán này dực trên các dữ kiệnkết thúc công án. Thử lắng nghe tụng của Tuyết Đậu xem.

TỤNG: 

Hai hét với ba hét,

Thành thạo biết cơ biến.

Nếu như cưỡi lưng cọp,

Cả hai thành ra mù.

Ai mù đâu?

Nêu lên cho cả thiên hạ xem!

BÌNH: Tuyết Đậu luôn luôn đặc biệt vì người khác. Nếu như không phải là một chuyên gia hẳn thầy ta đã chỉ hét lung tung. Có lúc một tiếng hét không dùng như một tiếng hét, có lúc một tiếng hét dùng như một tiếng hét, có lúc một tiếng hét như sư tử ngồi xổm, có lúc một tiếng hét như Kim Cương Bảo Kiếm.” Hưng Hóa nói, “Tôi thấy các ông dưới hiên đông cũng hét, dưới mái tây cũng hét, hét loạn xà ngầu để làm cái gì? Lâm Tế nói, “Tôi nghe nói các ông bắt chước tôi hét, tôi thử hỏi các ông, đông đường có ông tăng bước ra, tây đường có ông tăng bước ra, cả hai ông tăng đều hét một tiếng, ai là chủ ai là khách? Nếu như các ông không phân biệt được chủ khách, từ rày về sau đừng bắt chước tôi hét nữa.

Cho nên Tuyết Đậu tụng rằng, “ Thành thạo biết cơ biến.” Ông tăng kia tuy bị Mục Châu bao vây, song cũng vẫn còn biết chỗ cơ biến. Thử nói xem, chỗ nào là chỗ ông tăng kia biết chỗ cơ biến? Lộc Môn Trí Thiền Sư phê bình ông tăng này rằng, “ Người biết Pháp sự?” Nham Đậu nói,” Luận việc chiến, ai cũng nắm then chốt.” Hoàn Long Tâm nói, “Cùng tắc biến, biến tắc thông”.[29] Đây chính là chỗ mà các tổ sư làm cho người trong thiên hạ phải líu lưỡi. Nếu như các ông là người hiểu cơ biến thì vừa nêu lên đã hiểu ngay chỗ cốt yếu.

Có lắm kẻ nói, “cần phải bận tâm đến việc Mục Châu nói ba bốn tiếng hét làm gì, cứ tiếp tục hét. Nói gì hai chục ba chục tiếng hét, cứ việc hét cho đến khi Phật Di Lặc hạ sinh, gọi là cưỡi lưng cọp. Nếu các ông có tri kiến như thế, tức là chẳng hiểu Mục Châu. Dù cho muốn hiểu ông tăng kia đi nữa, các ông cũng quá xa vời. Giống như người cưỡi lưng cọp, cần phải trong tay có đao cũng như biết uyển chuyển thì mới được.

Tuyết Đậu nói nếu như thế thì “ cả hai thành ra mù.” Tuyết Đậu giống như thanh ỷThiên trường kiếm, uy phong lẫm lẫm. Nếu như hiểu được ý của Tuyết Đậu tự nhiên hiểu được ngàn điều vạn điều cùng một lúc. Lúc ấy sẽ thấy rằng phần cuối tụng của Tuyết Đậu chỉ là cước chú mà thôi. Lại nói, “ Ai mù đâu?” Chủ mù hay là khách mù? Chứ không phải là chủ khách đều cùng mù sao? Tôi xin nêu ra để người trong thiên hạ cùng thấy.” Đây chính là chỗ sống động, Tuyết Đậu một lúc tụng ra luôn. Nhưng mà tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Nêu lên cho cả thiên hạ xem?” Thử nói coi, các ông xem như thế nào? Nhắm mắt cũng được, mở mắt cũng được, song còn có ai tránh được chăng?
 
 

[1] “Thánh đế đệ nhất nghĩa”. Triết học Phật giáo phân biệt hai sự thật (satyadvaya,nhị đế), (a) paramàrtha (chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế) tức là sự thật cứu cánh, thuộc phạm vi (gocàra) của trí giác ngộ, (b) samvrtisatya (tục đế) hay sự thật công ước, thuộc phạm vi của tri thức thường tình. Chữ Phạn Satya trong trường hợp này có thể dịch là “thực tại” (reality).

[2] Ở đây chúng tôi theo bản của Ito Yuten. Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có chữ “Phật”.

[3] Nhị Tổ tức Huệ Khả hay Thần Quang. Về tiểu sử của Huệ Khả xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả sẽ xuất bản.

[4] Kinh Phóng Quang Bát Nhã (Pancavimsatisahàsrikàpraj-nàparàmità), một trong những bản kinh quan trọng của Bát Nhã Bộ. xem Taishò 221.

[5] “Tất dũng”: cái thùng đen. Chữ trong Thiền học ám chỉ sự vô minh.

[6] Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có đoạn này.

[7] Bản của Cổ Phương Thiền Sư: “ toại bất phục cứu” có vẻ đúng hơn.

[8] Ở đây chúng tôi theo bản của Cổ Phương Thiền Sư

[9] Tam Tổ tức Tăng Xán .Về tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[10] Nguyên văn “đả thành nhất phiến”, ngụ ý không còn phân biệt giữa tâm và cảnh, nhân và ngã.

[11] Tức Mã Tổ Đạo Nhất, về tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[12] Theo Phật danh Kinh thì trong một ngàn vị Phật thuộc hiền kiếp vị Phật thứ hai trăm lẻ hai tên là Nguyệt Diện Phật, còn vị Phật thứ tám trăm năm mươi tám tên là Nhật Diện Phật.

[13] Kinh Kim Cương (Vajracchedikàprajnàpàramità Sùtra) cũng là một kinh quan trọng thuộc Bát Nhã Hệ.

[14] Tâm là chủ của vạn pháp” có thể so sánh với kệ số 1 trong Dhammapada: Manopubbángamà dhammà manosetthà manomayà, manasà ce padutthena bahàsati va karoti và tatonam dukkham anveti cakkam va vahato padam.(xem V,Fausboll. The Dhammapada. London: Luzac & Co.1900 trang 3).

[15] Tào Khê là nơi Lục Tổ Huệ Năng cư ngụ, cho nên trong truyền thống Thiền chữ Tào Khê thường được dùng để chỉ Lục Tổ.

[16] Không Sinh tức là ngài Tu Bồ Đề (Subhuti).

[17] Thuấn-nhã-đa tức là dịch âm của chữ Phạn “sùyatà”có nghĩa là không.

[18] Có nghĩa là câu hỏi và câu trả lời trực tiếp chạm nhau như thể hai đầu mũi tên.

[19] Pháp môn của phái Thiền Tào Động.

[20] Pháp môn của phái Thiền Lâm Tế. Xin xem thêm trong Lâm Tế Lục, cùng một dịch giả, sắp xuất bản.

[21] Hai đoạn này không có trong bản của Cổ Phương Thiền Sư.

[22] “minh”.Bản của Ito Yeten: “viên” (viên mãn).

[23] Thỉnh ích, có nghĩa là tham khảo thêm với bậc thầy.

[24] Phần Dương Thiện Chiểu (947-1024) thuộc dòng Lâm Tế, có công trong việc tổng hợp các giáo lý của nhiều tông phái Thiền khác nhau..

[25] “Trần” có nghĩa là đối tượng của cảm quan.

[26] Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có câu này.

[27] Thược-ca la phiên âm của chữ Phạn “súkla” có nghĩa là trong sạch.

[28] Theo bản của Ito Yuten: “ Phật đưa nắm tay lên hỏi, “mở hay đóng?”

[29] Lời nói từ Kinh Dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49748)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34629)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33447)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57070)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47564)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39417)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38477)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52934)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36595)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32240)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40468)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43485)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31449)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46709)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36209)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28695)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29241)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31888)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28828)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33361)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29136)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39766)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26674)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29664)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37375)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40088)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26836)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42656)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37281)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28285)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28896)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26394)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27171)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26184)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27801)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30473)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33283)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28568)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30074)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25493)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21844)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51299)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26725)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28626)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27704)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24358)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27460)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31928)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30185)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27702)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35443)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27441)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30013)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31773)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23024)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24179)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23019)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant