Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Sáu: Người Trong Cỏ Của Kính Thanh

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15791)
Tắc thứ Mười Sáu: Người Trong Cỏ Của Kính Thanh

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI SÁU

NGƯỜI TRONG CỎ CỦA KÍNH THANH

 

THÙY: Đạo không có đường tẻ, đứng nơi đó (là đứng nơi) đơn độc và nguy hiểm. Pháp không thuộc nơi kiến văn, vượt ngoài ngôn ngữtư tưởng. Nếu như các ông có thể đi qua được rừng gai góc, giải được các hệ phược của Phật và Tổ, là các ông đã được nơi chốn an ổn, chỗ chư thiên không có lối để dâng hoa, ngoại đạo hết cửa để nhòm ngó. Lúc ấy suốt ngày đi mà không từng đi, suốt ngày nói mà không từng nói, tha hồ tự do tự tại mà khai triển phương tiện sử dụng sát hoạt kiếm. song dù có đạt được mức độ như vậy đi nữa các ông vẫn nên biết rằng bên trong cánh cửa phương tiện có một tay nâng lên một tay đè xuống. Tuy nhiên như thế hãy còn có chút (chấp trước). Nếu nói về sự việc căn bản, thì điều này chẳng có gì là nhằm nhò cả. Thế nào là sự việc căn bản? Xin thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Kính Thanh, “Đệ tử cắn, xin thầy mổ.” Kính Thanh nói, “Còn sống được không?” Ông tăng nói, “Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta chê cười.” Kính Thanh nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.”

BÌNH: Kính Thanh thừa tự Tuyết Phong và sống đồng thời với Bổn Nhân, Huyền Sa, Túc Sơn , và Thái Nguyên Phù. Lúc đầu gặp Tuyết Phong đắc được tông chỉ, sau đó thường dùng phương tiện cắn mổ để khai thị những kẻ hậu học. Thầy ta rất khéo thuyết pháp hợp với căn cơ của người nghe.

Một lần kia Kính Thanh dạy chúng rằng, “Phàm những kẻ hành cước cần phải có đôi mắt “ cắn mổ” cùng với đại dụng “cắn mổ” thì mới xứng đáng để xưng mình là nạp tăng. Giống như lúc gà mẹ cắn thì gà con không thể mổ, lúc gà con mổ thì gà mẹ không thể không cắn”. Có ông tăng bước ra hỏi, “Lúc gà mẹ cắn gà con mổ, theo quan điểm của hòa thượng thì như thế nào?’ Kính Thanh nói, “ Tin lành thật.” Ông tăng nói, “ Lúc gà con mổ gà mẹ cắn theo quan điểm của người học thì như thế nào?” Kính Thanh nói, “Để lộ diện mục.” Cho nên mới nói là trong môn hạ của Kính Thanh có phương tiện “cắn mổ” là thế.

Ông tăng này cũng là khách của họ, cho nên mới hiểu sự việc trong nhà của họ. Vì vậy ông ta mới hỏi, “Đệ tử cắn , xin thầy mổ.” Trong dòng của Động Sơn loại câu hỏi này được gọi là mượn sự để hỏi về (tâm) cơ.Tại sao lại như vậy? Lúc gà con mổ gà mẹ cắn tự nhiênphù hợp đồng thời.Kính Thanh cũng rất hay, có thể nói là quyền cước tương ưng, tâm nhãn tương chiếu. Cho nên bèn đáp ngay rằng, “ Còn sống được không?” Ông tăng cũng hay, biết thay đổi theo tình huống. Trong một câu này của Kính Thanh có chủ có khách, có chiếu có dụng, có giết có cứu. Ông tăng nói, “Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta cười chê.” Kính Thanh nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.” Lúc nào cũng lội trong nước trong bùn, Kính Thanh rất khéo léo trong việc này.

Ông tăng đã biết hỏi như thế, tại sao Kính Thanh lại nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.” Bởi vì đôi mắt của một tay thành thạo thì phải như thế, giống như ánh đá lửa, điện chớp. Có với được đến hay không cũng khó mà đừng tan thân mất mạng. Nếu như các ông như thế, các ông sẽ thấy rằng Kính Thanh gọi ông tăng kia là người trong cỏ.

Cho nên Nam Viện dạy chúng rằng, “Người các nơi chỉ có đôi mắt “cắn mổ” đồng thời chứ không có đại dụng “cắn mổ” đồng thời. Có ông tăng bước ra hỏi, “Thế nào là đại dụng “ cắn mổ” đồng thời?” Nam Viện nói, “Kẻ thành thạo không cắn mổ. Cả cắn lẫn mổ đều sai.” Ông tăng nói, “Đệ tử vẫn còn có chỗ nghi.” Nam Viện nói, “Chỗ nghi của ông là gì?” Ông tăng nói, “Sai”. Nam Viện bèn đánh. Ông tăng không đồng ý, Nam Viện bèn đuổi ông ta ra.

Sau ông tăng này đến nơi chúng hội của Vân Môn kể lại câu chuyện trên. Có ông tăng hỏi, “Thế gậy của Nam Viện có bị gãy không?” Ông tăng kia bèn hoát nhiên tỉnh ngộ. Thử nói xem, ý nghĩa của câu chuyện này là ở chỗ nào? Ông tăng kia bèn trở về để ra mắt Nam Viện , song Nam Viện đã mất, cho nên bèn vào gặp Phong Huyệt. Ông ta vừa cuối lạy, Phong Huyệt nói, “Ông có phải là ông tăng hỏi tiên sư về việc cắn mổ đồng thời không?” Ông tăng nói, “Vâng”. Phong Nguyệt nói, “Lúc ấy ông hiểu như thế nào?” Ông tăng nói, “ Lúc ấy kẻ hèn này giống như thể đi dưới bóng đèn.” Phong Huyệt bèn nói với ông tăng, “Ông hiểu rồi.” Thử nói xem như vầy là thế nào? Ông tăng kia chỉ đến mà nói rằng, “ Lúc ấy kẻ hèn này giống như thể đi dưới bóng đèn.” Tại sao Phong Huyệt lại nói với ông ta rằng, “Ông hiểu rồi”?

Sau này Thúy Nham niệm rằng, “Mặc dù Nam Viện bày vẽ kế hoạch trong trại của mình, song đất rộng người thưa, kẻ tri âm ít.” Thúy Nham bình rằng, “ Lúc ấy nếu như ông ta vừa mở miệng Nam Viện lập tức đánh, xem ông ta như thế nào?” Nếu như các ông thấy được công án này thì các ông sẽ thấy được chỗ ông tăng kia và Kiến Thanh gặp nhau. Làm thế nào để tránh khỏi bị Kính Thanh gọi là người trong cỏ? Cho nên Tuyết Đậu vì thích Kính Thanh nói “ người trong cỏ” mới tụng.

TỤNG: 

Cổ Phậtgia phong,

Đối đáp bị dè bỉu.

Mẹ con không biết nhau,

Hỏi ai cùng cắn mổ?

Cắn, tỉnh,

Còn trong vỏ.

Bị đánh thêm,

Thiên hạ nạp tăng mõ vô ích.

BÌNH: “Cổ Phật có gia phong”, chỉ một câu đó thôi Tuyết Đậu đã tụng hết “công án” này rồi. Những kẻ thò mặt ra chẳng thể nào đến gần được. Nếu như đến gần được thì sẽ bị rơi từ đỉnhcao vạn trượng. Ngay khi các ông vừa thò đầu ra , là các ông đã rơi vào cỏ. Dù cho các ông có tung hoành được đinữa, cũng chẳng đáng để ra sức. Tuyết Đậu nói, “ Cổ Phậtgia phong.” Không phải bây giờ mới như thế.Lúc đức Thích Ca mới sinh ra, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, mắt nhìn bốn phương nói, “ Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.” Vân Môn nói, “ Nếu như lúc đó ta mà thấy ông ta, ta sẽ đập cho một gậy chết tốt rồi ném cho chó ăn, để mong cho thiên hạ được thái bình.” Chỉ như vậy người ta mới trả lời thích đáng được. Cho nên các phương tiện cắn mổ đều là gia phong của cổ Phật.

Nếu như các ông đạt được đạo này, các ông có thể một quyền đấm đổ Hoàng Hạc Lâu,một cước đá loạn Anh Vũ Châu[25].Giống như thể một khối lửa, ai đến gần sẽ bị cháy mặt. Giống như Thái A Kiếm, ai đùa rỡn với nó sẽ tang thân mất mạng. Việc này chỉ có những ai đã thấu thoát, đã được giải thoát mới có thể như thế được. Còn nếu như mê mờ căn nguồn vướng mắc ngôn ngữ thì không cách chi mà nắm bắt được cách nói chuyện này.

“Đối đáp bị dè bỉu.” Đây chính là một chủ một khách một vấn một đáp. Ngay trong vấn đáp đã có dè bỉu. Đó gọi là “đối đáp bị dè bỉu”. Tuyết Đậu thâm hiểu việc này, cho nên chỉ tụng tất cả trong hai câu.

Cuối cùng Tuyết Đậu đi vào bãi cỏ để giải thích thấu triệt cho các ông. “ Mẹ con không biết nhau, hỏi ai cũng cắn mổ?’ Tuy gà mẹ cắn, song cũng không thể khiến gà con mổ ra. Tuy gà con mổ ra, song cũng không thể khiến gà mẹ cắn. Gà mẹ gà con không biết nhau, vào lúc cắn mổ, ai đồng thời cắn mổ? Nếu hiểu như vậy cũng chưa thể thoát ra khỏi câu cuối cùng của Tuyết Đậu được. tại sao? Há không nghe Hương Nghiêm nói, “ Con được. Tại sao? Há không nghe Hương NGhiêm nói, “ Con mổ mẹ cắn, con tỉnh không vỡ. Mẹ con đều quên, ứng duyên không sai. Cùng đường xướng họa, huyền diệu độc hành.” Tuyết Đậu đúng là lạc vào bãi cỏ gây rắc rối nói rằng, “ Cắn” .Một chữ này tụng câu trả lời của Kính Thanh rằng, “ còn sống được không?” “Tỉnh” là để tụng câu trả lời của ông tăng rằng, “ Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta chê cười.” Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Còn trong vỏ”? Tuyết Đậu phân biệt được trắng đen trong ánh đá lửa, biện rõ được đầu mối của sự vật vớitâm cơ như điện chớp.

Kính Thanh nói, “Ông cũng là người trong cỏ” Tuyết Đậu nói, “ Bị đánh thêm.” Chỗ này có hơi khó Kính Thanh nói, “Ông cũng là người trong cỏ”. Có thể bảo là Kính Thanh móc mắt ông tăng kia đi được chăng? Câu này phải chăng nói rằng ông ta vẫn còn trong vỏ? Nhưng mà những điều này chẳng có gì là đúng cả. Tại sao lại thế? Nếu như hiểu được, người ta có thể đi hành cước khắp nơi mà vẫn báo ơn (cho thầy) được.Lúc sư núi tôi nói như thế, thì cũng hóa ra người trong cỏ rồi.

“Thiên hạ nạp tăng mồ vô ích.” Ai là kẻ không đặt tên và mô tả? Đến chổ này Tuyết Đậu không đặt tên hay mô tả được, song lại làm lụy người khác, các nạp tăng trong thiên hạ. Thử nói xem, đâu là chỗ Kính Thanh vì ông tăng kia? Các nạp tăng trong thiên hạ không ai nhảy ra khỏi được cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34654)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33467)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43954)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47589)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39438)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52969)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36623)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32257)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40504)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43510)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31479)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46733)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36226)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28722)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29265)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31917)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28859)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29166)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61017)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39805)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26706)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29697)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37409)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40117)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26865)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42694)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37297)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28316)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26414)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27186)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26207)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34703)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27832)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30496)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33311)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28585)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30094)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25498)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21862)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51339)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26747)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28641)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27728)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24371)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27485)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31972)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30213)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27731)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35482)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27475)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30042)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31800)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23046)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24204)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23049)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant