Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Tám: Chư Thánh Của Niết Bàn Hòa Thượng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15534)
Tắc thứ Hai Mươi Tám: Chư Thánh Của Niết Bàn Hòa Thượng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI TÁM

CHƯ THÁNH CỦA NIẾT BÀN HÒA THƯỢNG

 

CỬ: Nam Tuyền đến tham kiến Niết Bàn Hòa Thượng ở núi Bách Trượng. Bách Trượng hỏi, “Chư thánh từ xưa còn có Pháp nào chưa nói cho thiên hạ không?” Nam Tuyền nói, “Có.” Bách Trượng nói, “Thế nào là Pháp chưa nói cho thiên hạ?” Nam Tuyền nói, “ Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật.” Bách Trượng nói, “Như thế là nói rồi.” Nam Tuyền nói, “Kẻ hèn này thì như thế, còn hòa thượng thì như thế nào?” Bách Trượng nói, “Tôi đã không phải là bậc thiện tri thức, làm sao biết là đã nói hay chưa nói.” Nam Tuyền nói, “Kẻ hèn này không hiểu.” Bách Trượng nói, “Tôi đã hết sức nói cho ông rồi.”

BÌNH: Đến chỗ này chẳng cần “là tâm” hay “ không phải là tâm”, hoặc “không phải là tâm” hay “không không phải là tâm.” Tuy từ đầu đến chân không có một sợi lông mày, song như thế mà vẫn còn hơn. Thọ Thiền Sư gọi “ là tâm” là lối giải thích trực tiếp, “ không phải là tâm” là lối giải thích gián tiếp, đây chính là Niết Bàn Hòa Thượng Pháp Chính Thiền Sư. Hồi xưa làm viện chủ Tây Đường tại Bách Trượng. Sau lập tự viện giảng Phật pháp.

Lúc ấy Nam Tuyền đã gặp Mã Tổ rồi, sau đó đang đi nơi để quyết trạch (Phật pháp). Bách Trượng đặt câu hỏi này kể cũng hết sức khó đáp. Hỏi rằng, “Chư thánh từ xưa có còn Pháp nào chưa nói cho thiên hạ không?” Nếu như là sơn tăng tôi, thì tôi đã bịt taibỏ ra rồi. Hãy nhìn xem cơn lúng túng của lão hán này. Nếu như la một chuyên gia mà thấy thầy ta hỏi như thế hẳn đã nhìn thấu thầy ta rồi. Nam Tuyền chỉ dựa vào chỗ thấy của mình cho nên nói, “ Có.” Quả thật là càn rỡ.[12]

Bạch Trượng lấy lầm lẫn ra đối với lầm lẫn, nói tiếp rằng, “ Thế nào là Pháp chưa nói cho thiên hạ?” Nam Tuyền nói, “Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật.” Lão này tham ngắm trăng trên trời, mà đánh mất viên ngọc trong lòng bàn tay. Bách Trượng nói, “Như thế là nói rồi.” Đáng tiếc thầy ta đã nói toạc cả ra cho Nam Tuyền rồi. Lúc ấy phải cứ nhắm lưng thầy ta mà lấy gậy nện cho thầy biết thế nào là đau đớn.

Tuy là như thế, song các ông thử nói xem, chỗ nào là chỗ thầy ta nói? Theo chỗ thấy của Nam Tuyền thì không phải tâm, không phải Phật, không phải vật, chưa từng bao giờ được nói ra. Xin hỏi các ông, tại sao Bách Trượng lại nói, “như thế là nói rồi”? Trong lời nói của Nam Tuyền lại vô tung vô ích. Nếu bảo rằng thầy ta không nói, thì tại sao Nam Tuyền lại nói như thế? Nam Tuyền lại là người biết quyền biến cho nên mới dồn Bách Trượng mà nói tiếp rằng, “Kẻ hèn này thì như thế, còn hòa thượng thì như thế nào?” Nếu như là người khác khó mà tránh khỏi lúng túng không biết phải làm sao. Bách Trượng vốn là tay chuyên gia, chỗ trả lời của thấy ta quả thật là kỳ đặc. Nói ngay rằng, “ Tôi đã không phải là bậc thiện tri thức, làm sao biết là đã nói hay chưa nói?” Nam Tuyền bèn nói rằng mình không hiểu. Thầy ta quả thực hiểu song lại nói là không hiểu. Đây chẳng phải là không hiểu thực sự. Bách Trượng nói, “Tôi đã hết sức nói cho ông rồi.” Song thử nói xem, chỗ nào là chỗ thầy nói?

Nếu như là hai kẻ nghịch bùn đất thì cả hai hẳn đã lem luốc rồi. Nếu như cả hai đều là những chuyên gia, ắt giống như hai tấm gương trên giá. Kỳ thực thoạt đầu cả hai đều là chuyên gia, sau đó cả hai lại cùng buông bỏ. Nếu như các ông là những người có mắt, các ông phải thử thách họ một cách rõ ràng. Song thử nói xem, phải thử thách họ bằng cách nào? Xin xem tụng của Tuyết Đậu.

TỤNG

Tổ Phật xưa nay chẳng vì người,

Nạp tăng xưa nay sánh vai đi.

Gương sang trên khung ảnh biệt dị,

Quay cả về nam nhìn bắc đẩu.

Bắc đẩu nghiêng,

Không nơi tìm.

Nhếch được mũi lên mất luôn miệng.

BÌNH: Đức Thích Ca Mâu Ni xuất thế bốn mươi chín năm chưa từng nói lấy một chữ. Bắt đầu từ Quang Diệu độ cho đến cuối cùng ở song Bạt Đề, giữa khoảng đó chưa từng nói một chữ. Thử nói xem, nói như thế là có nói hay không có nói? Hiện giờ tràn Long Cung đầy Hải Tàng, tại sao lại là không nói? Há không nghe Từ Sơn Chủ nói, “Chư Phật không xuất thế , bốn mươi chín năm thuyết. Đạt Ma không từng đến, Thiếu Lâm có diệu quyết.” Lại nói, “Chư Phật chưa từng xuất thế mà cũng chẳng có Pháp gì cho thiên hạ cả. Chư Phật chỉ quán tâm của chúng sinh rồi tùy cơ mà cho thuốc hợp với bệnh. Do đó mà chúng taba thừa và mười hai phần giáo.”

Kỳ thực từ xưa đến nay Phật, Tổ chưa từng nói gì cho người ta cả. Cái việc không vì người này, chúng ta phải tham một cách hết sức cận kẻ. Sư núi tôi thường nói rằng, dù cho tôi có nói them một câu ngọt như mật đi nữa, song lúc quan sát kỹ lại thì chính là độc dược. Nếu như ngay giây phút thiên hạ mở miệng các ông sơ gậy lên nhắm ngay lưng họ mà khệnh, rồi đuổi họ ra, thì đó mới là giúp người một cách thân thiết.

“ Nạp tăng xưa nay sánh vai đi.” Đến bất cứ chỗ nào, đúng họ cũng hỏi không đúng họ cũng hỏi , hỏi Phật hỏi Tổ, hỏi hướng thượng hỏi hướng hạ. Tuy là thế, song nếu chưa đạt được đến mức độ này, thì vẫn chưa được chút gì cả.” Gương sang trên khung ảnh biệt dị.” Chỉ cần một câu này thôi là cũng có thể phân biện minh bạch. Cổ nhân nói” Vạn tượng là sâm la chỉ là dấu ấn của một Pháp.” Lại nói, “ Sâm la và vạn tượng đều viên mãn ở trong ấy cả.”

Thần Tú Đại Sư nói, “Thân là cội bồ đề, tâm là đài gương sang, phải luôn luôn lau chùi, đừng để nhiễm bụi trần.” Ngũ Tổ (Hoằng Nhẫn) bảo rằng Thần Tú hãy vẫn còn ở ngoài cửa. Tuyết Đậu nói như thế, các ông thử nói xem, thầy ta ở trong hay ở ngoài cửa? Các ông ai cũng có một tấm gương xưa. Sâm la vạn tượng dài ngắn vuông tròn tất cả đều hiển hiện trong ấy. Nếu như các ông nắm vào cái dài ngắn mà hiểu, ắt là các ông mãi mãi rờ rẫm không ra. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “ Gương sáng trên khung ảnh biệt dị.”

Cho nên các ông “quay cả về Nam nhìn Bắc đẩu.” Đã quay về hướng nam tại làm sao còn nhìn bắc đẩu? Nếu hiểu được như vậy mới thấy được chỗ tương kiến giữa Bách Trượng và Nam Tuyền. Hai dòng này tụng việc Bách Trượng dồn (Nam Tuyền) mãi. Bách Trượng nói, “Tôi đã không phải là bậc thiện tri thức, làm sao biết là đã nói hay chưa?” Đến chỗ này tụng của Tuyết Đậu rơi vào nước chết. Sự thiên hạ hiểu lầm, thầy ta lại nêu lên rằng, “Bắc đẩu nghiêng, không nơi tìm. Nhếch được mũi lên mất luôn miệng.” Nhếch được miệng lên thì lại mất luôn mũi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49745)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34629)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33445)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57064)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47563)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39417)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38475)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52934)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36594)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32239)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40468)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43484)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31447)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46708)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36206)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28695)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29239)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31887)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28828)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33361)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29136)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39766)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26673)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29663)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37373)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40088)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26834)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42655)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37281)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28285)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28896)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26394)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27170)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26184)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34638)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27801)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30473)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33282)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28566)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30073)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25492)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21844)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51296)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26724)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28625)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27704)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24354)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27460)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31926)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30184)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27702)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35442)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27441)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30012)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31773)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23021)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24179)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23016)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant