Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Chín: Tay Và Mắt Của Đại Bi Bồ Tát

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15315)
Tắc thứ Tám Mươi Chín: Tay Và Mắt Của Đại Bi Bồ Tát

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI CHÍN

TAY VÀ MẮT CỦA ĐẠI BI BỒ TÁT

 

THÙY: Toàn thân là mắt cũng chẳng thấy. Toàn thân là tai nghe chẳng được. Toàn thân là miệng nói không được. Toàn thân là tâm chiếu không được. Tạm gác qua vấn đề “toàn thân” nếu như hốt nhiên không có mắt, làm sao các ông thấy được đây? Không có tai làm sao nghe được đây? Không có miệng , làm sao nói được đây? Không có tâm, làm sao chiếu được đây? Nếu như ở đây mà các ông có thể khai mở ra được một con đường, các ông có thể đồng tham học với các cổ Phật. Tạm gác vấn đề “ tham học” qua một bên, các ông tham học với ai đây?

CỬ:Vân Nham hỏi Đạo Ngô, “Từ Bi Bồ Tát dùng nhiều mắt và tay như thế để làm gì?” Đạo Ngô nói, “Giống như người nửa đêm đưa tay ra sau lưng để tìm gối.” Vân Nham nói, “ Tôi hiểu rồi”. Đạo Ngô nói, “Ông hiểu như thế nào?” Vân Nham nói, “Toàn thân là tay với mắt.” Đạo Ngô nói, “Ông nói hết sức là xít xao, song lại chỉ mới nói được có tám phần.” Vân Nham nói, “Thế theo sư huynh thì như thế nào?” Đạo Ngô nói, “Khắp thân là tay với mắt”

BÌNH: Vân Nham và Đạo Ngô cùng tham học với Dược Sơn. Suốt bốn mươi năm Vân Nam chẳng bao giờ ngủ nằm. Tào Động tông chính là phát xuất từ Dược Sơn. Đạo Pháp thịnh hành từ ba người: Từ Vân Nham phát xuất ra Đông Sơn, từ Đạo Ngô phát xuất ra Thạch Sương, từ Thuyền Tử phát xuất ra Giáp Sơn. Đại Bi Bồ Tát (Quán Thế Âm) có tám vạn bốn ngàn cánh tay Đại Bi Bồ Tát có nhiều tay và mắt như thế. Các ông có chăng? Bách Trượng nói, “Tất cả ngữ ngôn văn tự đều uyển chuyển quay về nơi chính mình.”

Vân Nham thường theo Đạo Ngô tham khảogiải thích. Một hôm Vân Nham hỏi Đạo Ngô, “Từ Bi Bồ Tát dùng nhiều mắt và tay như thế để làm gì?” Ngay từ đầu lẽ ra Đạo Ngô phải quất cho Vân Nham một gậy ngay trên sóng lưng có phải là đã tránh được biết bao nhiêu là dây dưa sau này không. Song Đạo Ngô vốn từ bi không thể làm như thế được, lại giảng giải kỹ càng cho Vân Nham mục đích muốn cho Vân Nham hiểu. Đạo Ngô nói, “Giống như người nữa đêm đưa tay ra sau lưng để tìm gối.” Lúc đêm sâu không ánh đèn đưa tay ra sau để tìm gối, thử nói xem mắt ở chỗ nào?

Vân Nham lập tức nói, “Tôi hiểu rồi.” Đạo Ngô nói, “Ông hiểu như thế nào?” Vân Nham nói, “Toàn thân là tay với mắt.” Đạo Ngô nói, “Ông nói hết sức là xít xao, song lại chỉ nói được có tám phần.” Vân Nham nói, “Thế theo sư huynh thì như thế nào?” Đạo Ngô nói, “ Khắp thân là tay với mắt.”

Thử nói xem” toàn thân là đúng” hay “ khắp thân” là đúng? Tuy có vẽ giống như bùn nát, song lại thánh thoát vô cùng. Người bây giờ hay hiểu theo thiên chấp nói rằng “ toàn thân” là sai, “khắp thân” mới là đúng. Họ chỉ lo nhai lại ngôn cú của cổ nhân mà thôi. Họ chết trong ngôn cú. Đây chỉ là những cái bất đắc dĩ phải sử dụng mà thôi. Người bây giờ thêm cước chú lập qui tắc, nói rằng nếu thấu được công án này là kể như khỏi cần tham học nữa. Lấy tay rờ rẫm khắp thân thể, rờ đèn đóm cột trụ, hiểu theo lối “khắp thân.” Nếu các ông hiểu theo lối này các ông làm bại hoại cổ nhân không phải là ít.

Cho nên mới có câu nói rằng, “thầy ta tham câu sống chứ không tham câu chết.” Cần phải tuyệt tình trần ý tưởng thánh thoát tự tại, các ông mới có thể hiểu được câu nói vể Đại Bi này.

Há không nghe Tào Sơn hỏi ông tăng, “ Lúc (Pháp thân) ứng vật hiện hình giống như bóng trăng trong nước thì như thế nào?” Ông tăng nói, “Giống như con lừa nhìn xuống giếng.” Tào Sơn nói, “Ông nói một cách hết sức xít xao, song lại chỉ mới nói được tám phần mà thôi.” Ông tăng nói, “Thế theo hòa thượng thì như thế nào?” Tào Sơn nói, “Giống như giếng nhìn con lừa.” Đây cũng cùng một ý với công án trên.

Nếu như các ông toan dựa vào ngôn ngữ để mà thấy, các ông chẳng bao giờ thoát ra khỏi bẫy rập của Đạo Ngô và Vân Nham được cả. Tuyết Đậu là bậc chuyên gia không còn chết trong ngôn ngữ nữa, lập tức tụng ngay rằng:

TỤNG

Toàn thân đúng,

Khắp thân đúng.

Niêm lên vẫn cách mười vạn dặm

Tung cánh Bằng bay chín tầng mây.

Gây gió thổi tung nước bốn biển,

Bụi trần nào đó hốt nhiên sinh?

Cụm Lông nào hề vẫn chưa ngừng?

Há không thấy,

Lưới ngọc buông rủ ảnh chập chùng?

Đôi mắt đầu gậy từ đâu sinh?

Hét!

BÌNH: “Toàn thân đúng, khắp thân đúng.” Nói rằng đưa tay ra sau lưng mò gối là đúng, hay lấy tay rờ rẫm thân thể là đúng, nếu như có những kiến giải như thế, đều là vào hang ma mà sống cả. Rốt cuộc cả “toàn thân” lẫn “khắp thân” đều chẳng đúng. Nếu như các ông toan dùng tình thức để mà thấy ý nghĩa của lời nói vể Đại Bi Bồ Tát này, hẳng là các ông còn cách xa đến mười vạn dặm. Tuyết Đậu chơi được với một câu, cứu sống, nói rằng , “Niêm lên vẫn cách mười vạn dặm.”

Trong những câu kế tiếp Tuyết Đậu tụng chỗ kỳ đặc của Vân Nham và Đạo Ngô rằng, “Tung cánh Bằng bay chín tầng mây, gây gió thổi tung nước bốn biển.” Chim Bằng lớn nuốt cả rồng, dùng cánh mà gây gió nổi sóng; nước rẽ ra, từ ngoài ba ngàn dặm chim Bằng bất rồng mà nuốt. Tuyết Đậu nói rằng nếu như các ông gây gió nổi sóng được như chim Bằng, hẳn là các ông hết sức là hùng tráng.

Nếu dùng Đại Bi thiên thủ nhãn mà quán, việc ấy chỉ giống như một chút bụi trần nổi lên, lại cũng giống như một cụm lông bị gió thổi chưa ngừng. Tuyết Đậu nói, “ Nếu như các ông xem tay rờ rẫm thân thể là thủ nhãn thì đã có ích dụng gì nào?” Nói cho đúng như thế vẫn chưa nhằm nhò gì đến lời nói vể Đại Bi Bồ Tát kia. Cho nên Tuyết Đậu nói, “ Bụi trần nào hề hốt nhiên sinh? Cụm lông nào hể vẫn chưa ngừng?”

Tuyết Đậu tự nói mình là chuyên gia trong một lúc xóa hết các dấu vết. Song cuối cùng lại vẫn cứ lậu đậu như cũ, vẫn cứ so sánh tỉ giáo, cho nên vẫn còn vướng mắc trong bẫy rập như cũ. “Há không thấy, lưới ngọc buông rũ ảnh chập chùng?” Tuyết Đậu dẫn tích lưới ngọc của Đế Thích để làm phạm trù giáo lý. Thử nói xem rốt cuộc tay với mắt ngưng nghỉ ở chỗ nào?

Trong Hoa Nghiêm Tông lập tứ pháp giới: một là lý pháp giới, để giải inh nhất vị bình đẳng; hai là sự pháp giới, để giải minh rằng toàn thể lý (thể hiện) thành sự. Ba là lý sự vô ngại pháp giới, để giải minh sự lý tướng dung, lớn nhỏ vô ngại; bốn là sự sự vô ngại pháp giới, để giải minh rằng một sự thể nhập vào tất cả mọi sự, tất cả mọi sự khắp nơi thu nhiếp tất cả mọi sự, đồng thời giao tham vô ngại. Cho nên mới nói rằng, "Một hạt bụi vừa khởi lên là cả đại địa này gồm thâu trong đó, một hạt bụi hàm chứa vô biên pháp giới. Một hạt bụi như thế, các hạt bụi khác cũng đều như thế.”

Lưới ngọc này tức là trước Thiện Pháp Đường trên trời Đế Thích có một cái lưới ngọc. Trong mỗi một viên ngọc phản chiếu trăm ngàn viên ngọc, trăm ngàn viên ngọc đều hiện cả trong một viên ngọc, phản chiếu nhau chập chùng, chủ khách vô tận. Cái này dùng để giải minh sự sự vô ngại pháp giới. Ngày xưa Hiền Thủ Quốc Sư lấy những tấm gương và một ngọn đèn để làm ví dụ. Quốc Sư để mười tấm gương chung quanh rồi đặt ngọn đèn ở giữa. Khi nhìn một tấm gương ắt thầy chín tấm gương kia phản chiếu ngọn đèn, tất cả đều hiện lên rõ ràng. Nhìn bất cứ một tấm gương nào trong mười tấm gương ấy đều thấy như thế cả.

Cho nên đức Thế Tôn lúc mới thành chính giác, không rời Bồ Đề Đạo Tràng mà thẳng lên cõi trời Đao Lợi cũng như tất cả các nơi thất xứ cửu hội để giảng Kinh Hoa Nghiêm.

Tuyết Đậu dùng lưới ngọc của Đế Thích để dạy về sự sự vô ngài pháp giới. Ý nghĩa của sáu tướng rất là rõ ràng, đó là; tổng tướng,biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướnghoại tướng. Cử một tướng ắt sáu tướng đều hiện. Bởi vì chúng sinh trong đời sống hàng ngày không hiểu ý nghĩa của nguyên lý này Tuyết Đậu mới nêu lên hình ảnh lưới ngọc của Đế Thích để so sánh với lời dạy về Đại Bi Bồ Tát kia. Ý nghĩanhư vầy đây: nếu như ở lưới ngọc này mà các ông có thể hiểu được ý nghĩa của cây gậy, thần thông diệu dụng, ra vào vô ngại, các ông mới có thể thấy được ngàn tay ngàn mắt. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Ngàn mắt nơi đầu gậy từ đâu mà sinh khởi?” Như vậy là nhắm để các ông đạt được giác ngộ lúc bị gậy đánh và chứng đắc được dưới tiếng hét.

Đức Sơn đánh thiên hạ ngay khi họ bước vào cổng, Lâm Tế hét thiên hạ ngay khi họ bước vào cổng. Thử nói xem, tay với mắt ở chỗ nào? Và thử nói xem, tại sao Tuyết Đậu lại hét? Các ông thử tham Thiền xem sao.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49769)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34651)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33466)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43945)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57105)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47585)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39431)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38490)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52966)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36621)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32253)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40499)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43508)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31477)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46729)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36223)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28719)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29261)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31915)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28851)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33391)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29161)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61001)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39801)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26704)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29693)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37406)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40109)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42690)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37294)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28308)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28908)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26412)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27182)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26205)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34697)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27830)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30492)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33308)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28576)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30088)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25496)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21862)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51337)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26744)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28640)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27726)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24368)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27479)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31967)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30209)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27730)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27471)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30029)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31797)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23043)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24200)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23047)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant