Hán dịch: Sa môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
KINH TRUNG ẤM: QUYỂN HẠ
BA ĐỜI BÌNH ĐẲNG
Bấy giờ trên tòa có Bồ Tát tên là Bất Yếm Hoạn Kiếp, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay quỳ trước Phật bạch rằng: Thần lực tối thắng của Như Lai vô cùng vi diệu không thể suy lường. Như Lai thần đức lưỡi rộng và dài, không phạm lỗi lầm như chúng sanh. Nay đây, ba loại chúng sanh quá khứ, tương lai và ngay bây giờ, Ngài vì chúng sanh quá khứ hay vì chúng sanh tương lai và hiện tại?
Bấy giờ ĐứcThếTôn bảo Bồ Tát Bất Yếm Hoạn Kiếp rằng: Lành thay, lành thay! Chỗ hỏi của ông đối với ba loại chúng sanh được nhiều lợi lạc, nhiều sự thấm nhuần và dứt được gốc vô minh, thân nghiệp được thanh tịnh, chẳng phải chỉ có Phật mới nói.
Lúc này Đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng:
Người,
lúc ở trong thai
Tự
bìết
túc mạng mình
Bỏ
kia
nay thọ đây
Ba
đời
rõ như thế
Thức
trước
khác thức này
Thân
trước
khác thân này
Chỉ
vì
ngu lầm mê
Chẳng
biết
vào cửa đạo
Ở
bốn sử, niệm này
Phát
khởi
bao nhiêu vọng
Than
ôi
già-bệnh-chết
Chìm
đắm
ở ba đời.
Thế rồi Đức Thế Tôn muốn giải thích nghĩa đó liền nói kệ tiếp:
Ta
vốn không sắc này
Thọ-
tưởng-
thức cũng vậy
Ta
không,
kia cũng không
Nào
có
thọ- tưởng-thức
Không
sắc
là sắc pháp
Pháp
loạn
tưởng chúng sanh
Chín
phẩm
thì sai biệt
Phân
biệt
pháp ba đời:
Thượng
thượng
pháp tối diệu
Không
quá
khứ vị lai
Thượng
trung
rất tế vi
Thượng
hạ
vô giác quán
Trung
thượng
đoạn ba kiết
Trung
trung
diệt ba trần
Trung
hạ
thoắt nhiên ngộ
Đây
gọi
là Phật Tử
Hạ
thượng
tuy là nặng
Song
như
bọt nước kia
Thoạt
nổi
lại thoạt chìm
Hạ
trung
các hữu tình
Khổ
vốn
rất sâu nặng
Ngoài
ta
ai thấu hiểu
Hạ
hạ
hàng chúng sanh
Đi
qua
nhiều kiếp khổ
Ta
hóa
độ loài kia
Chẳng
còn
Phiền não nữa
Có
bao
nhiêu tâm người
Ngồi
trên
tâm không ngộ
Hoặc
nguyện
Phật tương lai
Hay
cầu
Ngài hiện tại
Các
loại
chúng sanh này
Khó
mà
tế độ được
Nhân
sinh
vốn không hình
Nơi
trở
về hư không
Sống
chết
cùng vần xoay
Niết
Bàn,
là gì nhỉ?
Nếu
cho
có hữu tình
Thân-miệng-ý
làm
lành
Tịch
nhiên
vào dìệt độ
Già-bệnh-chết
nào
còn
Một
lòng
phát thệ rộng
Cũng
chẳng
vì tự mình
Hư
không,
không nắm được
Hư-thực
nào
có tên
Như
Lai
tiếng phạm thiên
Phân
biệt
pháp thật tướng
Thấu
rõ
tuệ không-vô
Đấng
độc
hành ba cõi
Hữu
giác:
pháp không ý
Quán
thân
nào đắm luyến
Vô
giác:
ở ba thiền
Tiến
vào
đường bất thối
Khi
thành
Phật đến nay
Lấy
đó
làm bổn nghiệp
Thành
Phật
cũng nhờ đây
Niết
Bàn
nào khác đó
Bởi
siêng
tạo công đức
Chưa
đạt
vào tướng thật
Nghe
tứ,
không lìa tứ
Các
Phật
ấn là đây.
Đương lúc Đức Thế tôn nói xong kệ này, tất cả chúng sanh nhiều không thể tính kể, và Ngũ Sắc Thức Trung Ấm, chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng muốn đắc pháp Lìa Bỏ Ba Đời Không Vui.
Lúc này Đức Thế Tôn nói lại kệ rằng:
Quá
khứ chẳng có đây
Hiện
tại
cũng vậy thôi
Đức
Di
Lặc tương lai
Giáo
hóa
nào sai khác
Ta
chỉ
nói mảy may
Như
bụi
trên móng tay
Muốn
nói
hết cõi giới
Ai
người
thấu hết đây
Nay
đang
ở Trung Ắm
Dời
đến
Vô Tưởng Thiên
Địa
ngục
người chịu khổ
Nghe
Pháp
được ngộ liền.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn dung thần lực đưa chúng sanh Trung Ắm đến cõi trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ Thức. Lúc này Đức Thế Tôn cũng dung thần lực đến đó. Khi đến cõi Phi Tưởng,Phi Phi TưởngThức rồi, Ngài bèn dựng lên một tòa cao bằng bảy báu trang nghiêm đều có Hóa Phật. Mỗi mỗi Hóa Phật đều có bốn chúng, mỗi mỗi chúng thảy đều thành tựu phép tắc uy nghiêm. Trong chúng sanh này có người tụng kinh thuyết nghĩa, hiền thánh im lặng,hoặc có vị nhập định, xuất định.
Thế rồi Đức Diệu Giác Như Lai lại dung Thần Túc Thập Lực tiếp độ chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức kia như Trung Ấm thân không sai khác.
Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng oai nghi phép tắc như thông lệ của chư Phật, khiến cho vô lượng Hoá Phật hiệp làm một Phật, hoặc dùng một thân hóa ra vô lượng, hoặc ở dưới cây diễn nói giáo pháp, hoặc nhập sơ thiền, định ý bất loạn, hoặc ở núi cao một mình thiền định, hoặc ngồi nơi vắng vẻ xuất ra mười tám thân biến: dưới thân ra lửa, trên thân ra nước, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước. Trời đất nếu không thì không có quái ngại. Hoặc hiện diệt độ mà không diệt độ. Hoặc hiện ra thân thể vô thường như thịt trương lên thối nát, như xác bồ câu trắng. Hoặc hiện ra tay chân đều ở chỗ khác.
Lúc này chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức thấy sự thay đổi này trong lòng hoảng sợ tự mình sanh tâm bảo rằng, hẳn là Niết Bàn thì không bệnh, không già, không có các sự thống khổ. Nay xem ra pháp này có sinh, có già, có bệnh, chết khổ. Giờ gặp Như Lai giáng thần tại đây nếu không thuận theo các tướng trên thì không chọn địa ngục mà vào, tức là vào ngôi nhà của Ta, Ta vốn quá khứ cùng người kia đâu có khác. Đời trước thức kia là A Nan Đà Già Lan Đà, thấy Phật lễ bái: “Lành thay Thế Tôn! Không gì tôn quí hơn là giáng thần cõi này, như gặp hoa ưu đàm bát la, nếu Phật không giáng thần ở đây chúng con ở mãi nơi chốn biên địa, sát hại vô lượng thân Già Lan Đà”. Lại tự tuyên bạch: “Nay gặp Đại Thánh như mặt trời làm tan hết tuyết, nếu không gặp ngài, Kẻ đó sẽ đọa làm thân con chồn bay nhảy rất hại, nào có thoát nghiệp, dùng bổn nguyện này được thoát khỏi khổ. Cõi hư không vô lượng, đấng Uy Đức ba cõi. Hàng Bích Chi Thanh Văn chỉ thấy được bằng con mắt giới hạn”.
Lúc này thức Già Lan Đà bèn khởi niệm: chúng ta đồng sinh, sinh ở cõi thức này tội phước chưa phân, hoặc đọa tà kiến làm thân con phi li. Ta vốn thọ thân không chỉ ba cõi, khi ở thân Trung Ấm Ngũ Sắc và Vô Sắc đã phát khởi ý nghĩ này: Các thức Phi Tưởng đều sống với tâm khổ não. Bọn chúng ta tuy sanh chỗ này nhưng chẳng được Niết Bàn, Chẳng phải là nơi an ổn.Nay gặp Như Lai nói pháp chân thật, chặt đứt nghìn vạn cửa, không đến cũng không đi, tham dục gốc sanh ngã, nay ta lại diệt nó là vượt qua vô minh kiết sử đời nay và đời sau, có sanh và có khổ, già, bệnh, như bóng lại có hình, như ánh trăng, cây lá…bóng rọi trên sông nước, như loài chó hoang ăn thức ăn hoàn toàn chẳng ra gì.
Ta nay là Phật ba đời pháp thì vừa có, vừa không, giáo hoá vốn không thay đổi, sanh vốn chẳng có sanh, hay thay phép mầu nhiệm khó độ mà độ được, kẻ ngu khờ thế gian cho Ta là chân thật, ngay khi bỏ mạng này còn đâu thân của Ta. Phân biệt trong thân kia đâu là mạng hay thọ, sống chết khổ lụy phiền, vứt đó rồi thọ đây, khổ nóng lạnh trong thai, chào đời lo sống chết, mẹ thì vui nuôi ta, không sanh ai có nạn, nổi chìm như bọt nước, thần thức luyến thân kia, xoay vần trong năm nẻo, đã đến chỗ buộc ràng, biển tử sanh năm đường, không đến cũng chẳng đi. Tâm là gốc hại thân, người hết “ngã” nạn đâu? Hư không nào gốc ngọn, sao biết thường, vô thường. Như thức Vô Tưởng kia, thấy thức Già Lan Đà, một làm vua Biên Địa, một làm loài Hóa Sanh, ba cõi rất là khổ, nơi đây không Niết Bàn, như đi giữa đồng trống, chỉ đông cho là tây, nơi tất cả các khổ, đều đạt được giải thoát.
Bấy giờ chúng sanh Phi Tưởng, Phi Vô Tưởng Thức bèn ở trước Phật tìm lời rồi nói kệ:
Xưa
con thờ Ngũ Hỏa
Nướng
đốt
thân thể đen
Nằm
ở
trên gai góc
Thân
khoác
áo sọ người
Vắt
chân
lên Nhật Nguyệt
Thờ
cúng
hết thảy thần
Nay
làm
Phi Phi Tưởng
Được
thấy
thân Như Lai
Xấu
hổ
việc làm xưa
Nơi
đây
nào thoát được
Rõ
chánh
pháp giáo hóa
Như Lai tự giáng thần
Được
thoát
chẳng vọng tâm
Ở
hẳn nơi an ổn
Năm
dục,
sanh tử cấu
Trói
buộc
ở bốn dòng
Tâm
luyến
mê ba cõi
Lửa
trí
huệ đốt trừ
Bốn
quả-chúng
sanh tu
Nào
thấy
sanh gốc ngọn
Mê
thức
chúng con là
Như
con
nay không khác.
Lúc này Đức Diệu Giác Như Lai lại dung kệ trả lời rằng:
Các
người vốn là chơn
Hơn
tám
vạn kiếp qua
Bởi
tử
sinh vô thường
Chết
kia
rồi sống đây
Loài
hữu
tình các ông
Chưa
từng
già bệnh chết
Chỉ
mong cầu Niết Bàn
Đâu
phải
chân thật pháp
Trần
dứt
thức chưa diệt
Trở
lại
cõi tam đồ
Ngoài
ta
ngươi không ngộ
Ai
cứu
được khổ đây
Ta
từ
vô lượng kiếp
Thề
độ
lão, tử, sanh
Đâu
phải
nghiệp tiền thân
Hay
hậu
thân phải chịu
Vốn
được
kim cương định
Nay
mới
giáo hóa ngươi
Đất
chẳng
thể làm trời
Trời
làm
đất sao được
Nước
không
thể ra lửa
Lửa
làm
nước được đâu
Hết
thảy
kẻ ngu mê
Thì
vạn
loài có ngã
Ngu
si
không rõ pháp
Cho
là
đạo chánh chơn
Như
người
kia mỏi mệt
Trong
chốc
lát nghỉ ngơi
Dầu
sống
tám vạn tư
Như
một
ngày trước mắt
Là
hữu
tình năm khổ
Không
có
ngã, chỗ nào?
Phân
biệt pháp-tướng thân
Phân
biệt
không-vô pháp
Sanh
thì
chẳng thấy sanh
Chết
nào
đâu thấy
Điều
căn
bổn tử sanh
Do
việc
làm đã tạo
Ba
ác
đạo luân hồi
Bệnh
si
là nguồn cội
Danh
sắc,
lục nhập pháp
Đây
là
thói của đời
Xúc
nhập
cùng sắc pháp
Ái
nhập
thêm khoái cảm
Mê
hoặc
của mọi loài
Mười
hai
duyên chẳng hiểu
Như
thiêu
thân vào lò
Đức
Diệu
Giác nói rằng
Nếu
ngươi
cấu trần nặng
Thì
ta
cấu tâm nặng
Thành
thân
Phật như ta
Trãi
qua
không ngằn cõi
Tâm
cấu
nặng phá tan
Phân
rành
tưởng-chẳng tưởng
Căn
nguyên
kiết sử là
Không
thường
bảo là thường
Chuốt
khổ
nói là vui
Suy
không
cho là có
Vô
ngã
lấy làm ngã
Loài
Tưởng-Phi
Tưởng
Tập
điên
đảo lâu ngày
Như
thiêu
thân ham lửa
Nạn
thân,
không tránh được
Lầm
mê
rớt sáu đường
Sanh
Trời
Phi Tưởng này
Tựa
như
đốn phứt cây
Gốc
còn,
cây sống lại
Bốn
đảo
điên mê lầm
Chứa
mầm
vô minh cả
Cửa
cam
lồ nay mở
Phật
đạo
vốn chơn như
Căn
bổn
khổ dứt trừ
Hết
hẳn
không còn dư
Dòng
biển
dài bốn sử
Sanh
sanh,
sanh không ngừng
Ta
nay
tung ba cõi
Và
đến
bên kia bờ
Nơi
bình
yên-vô úy.
Bấy giờ khi đức Thế Tôn nói kệ này xong, chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở Vô Dư Niết Bàn và không rời Niết Bàn. Hoặc có người muốn sanh Thiên thì Ngài nói pháp Thập Thiện. Nếu muốn sanh trong cõi Người, Ngài vì họ nói Ngũ Giới, hoặc người hướng đến Ba Ác Đạo thì Ngài nói về các loại sau đây: núi đao, cây kiếm, xe lửa, lò than…ba trăm ba mươi sáu ức vô số người chán sợ kiếp sống, nghe pháp Thanh Tịnh liền thành đạo quả.
Lúc này Đức Thế Tôn lại dung thần túc Thập Lực Vô Úy đưa chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức kia cùng đến cõi chúng sanh Ngũ Sắc Thức. Ngài chỉnh đốn đạo thọ, trang nghiêm cõi nước, phóng ánh sáng lớn. Mỗi mỗi ánh sáng đều có Hóa Phật, mỗi mỗi Hóa Phật đều ngồi trên tòa cao bảy báu, đủ ba mươi hai tướng hảo, nói về lục độ không cùng.
Chúng sanh Ngũ Sắc kia thấy Như Lai biến hóa, tâm Phiền não trói buộc thoáng chốc trừ sạch, không còn thích muốn ràng rịt sanh tử,
Thế rồi Đức Thế Tôn dùng phạm âm thanh tịnh mà nói kệ rằng:
Khổ,
từ sanh tử oán
Dùng
phương
tiện trừ đi
Tứ
đẳng,
đại bi tâm
Vượt
qua
vô lượng cõi
Nay
kẻ
lợi căn này
Mới
nghe
không dám thọ
Thấy
Phật
tướng, sắc thân
Thảy
nhập
tịch, diệt độ
Mới
hay
đạo thánh hiền
Khó
nghĩ
bàn vô lượng
Diệt
cấu
chẳng còn sanh
Đạo
thánh
hiền nào khác