Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 28679)
Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

blank

MỤC LỤC
1.1 Lời Tự Trần
1.2 Lời Tựa Đầu Tiên
1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa
1.4 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa
1.5 Lời Bạt 
1.6 Thanh Quy Thiền Môn
1.7 Tán 
1.8 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
1.8.1 Lấy nhơn – dụ - pháp làm danh 
1.8.2 Quyền - Thật - Tướng Làm Thể
1.8.3 Trì luật giữ nội hộ làm Tông
1.8.4 Y pháp luận sự làm dụng
1.8.5 Lấy Sữa Đặc - Dụng Làm Giáo Tướng 
Chương một: Chúc Diên – Chúc Quốc Vương.
1 Lập nghi chúc Thánh.
2 Ngày lễ chánh, sáng sớm chúc:
3 Cử hành ngày chúc thánh hoàn mãn 
4 Nghi thức nhận sắc chỉ vua ban
Chương hai: Báo Ân.
1 Lễ kỵ bậc tiên Thánh 
2 Cúng Chư Thiên 
3 Mặt trời mặt trăng bị che mờ 
4 Phụ: Tết Trung Thu
5 Lễ Cầu dứt mưa 
6 Cầu Mưa
7 Lời Phụ: Cầu tuyết 
8 Họa sâu ăn hại lúa (mùa màng)
9 Kỳ nguyện Vi Đà hộ pháp
10 Phụ: Vi Đà tôn thiên thánh đản
11 Phụ: Già Lam sanh nhựt
12 Cúng Ông Táo
Chương ba: Báo Đáp Nguồn Gốc.
1 Đức Phật Thích Ca đản sanh 
2 Lễ Phật Thành Đạo 
3 Vía Phật Nhập Niết Bàn 
4 Vía Phật Dược Sư
5 Lễ vía Phật Di Đà 
6 Vía Phật Di Lặc
7 Vía Chuẩn Đề
8 Lễ vía Văn Thù 
9 Vía Phổ Hiền 
10 Lễ vía Quan Âm
11 Lễ vía Đại Thế Chí 
12 Vía Địa Tạng Thánh Đản 
Chương bốn: Ân Đức Tổ Sư.
1 Giỗ Sơ Tổ Đạt Ma 
2 Lễ Kỵ Tổ Bách Trượng
3 Lễ Kỵ Trí Giả Đại Sư
4 Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ
5 Giỗ Đạo Tuyên Luật Sư 
6 Húy Nhựt Huệ Viễn Tổ Sư
7 Cúng Tổ Khai Sơn 
8 Lễ Cúng Thầy Nối Thừa Pháp
9 Lễ Giỗ Hai Thầy Thế Độ và Giáo Thọ 
10 Phụ: Cúng Giỗ Cha Mẹ 
11 Lễ Tháp 
12 Thiết Đặt Cúng Dường
13 Quét tháp 
Chương 5: Trụ Trì.
1 Thượng Đường
2 Các Ngày Thánh Tiết 
3 Phần phụ: 5 cách tham vấn 
3.1 Tham Vấn Tối - Tiểu Tham 
3.2 Phụ: Trà Đàm – Ngày Rằm, Mồng Một 
3.3 Lễ Thù Ân Vào Sáng Rằm, Mồng Một 
3.4 Vào Thất Thỉnh Giáo
3.5 Đi Tuần Liêu 
3.6 Giữa chúng 
4 Cáo Hương 
5 Tụng niệm 
6 Qui Ước Tụng Niệm, 11 Điều 
7 Lập Hộc lường đồ cúng 
8 Xông Hương Tháp 
9 Đốt Đèn Tháp Dược Sư 
10 Phổ Phật 
11 Bạch Giữa Chúng
12 Dạy Hành Đồng (Chú Tiểu
13 Vì Hành Giả Mà Nói Rộng 
14 Thọ Pháp
15 Đóng Cửa Tịnh Tu (Yểm Quan) 
16 Mở Cửa Kết Thúc Khóa Tu 
17 Nghinh Tiếp Bậc Tôn Túc (có 6 phép) 
17.1 Cung nghinh bậc tôn túc 
17.2 Thăng Tòa (thuyết pháp
17.3 Tại Phòng Hội 
17.4 Thỉnh Thọ Trai 
17.5 Viếng Thiền Đường - Tuần Liêu 
17.6 Tiễn Khách Hồi Sơn 
18 Hộ Trì Pháp 
19 Đến Chùa Khác 
20 Mừng Sinh Nhựt 
21 Cúng Trai Phạn Chư Tăng 
22 Cúng Dường Đất Đai 
23 Cúng La Hán 
24 Trăm thứ nhất của 500 La Hán 
25 Trăm Vị Thứ Hai của 500 La Hán 
26 Trăm Thứ Ba Của 500 A La Hán
27 Trăm Thứ Tư Của 500 A La Hán
28 Trăm Thứ Năm của 500 Vị A La Hán
29 Phóng Sanh 
30 Phụ: Qui Ước Chỗ ở loài vật, có 15 Điều 
31 Cúng Pháp Y 
32 Thọ Thông Tuệ 
33 Thông Tin Thư Từ, Thư Truyền Pháp Đến, Di Thư 
34 Mời Tân Trụ Trì 
35 Nhập Tự (Tân Trụ Trì Nhận Việc) 
36 Việc Đi Lại Của Trụ Trì 
37 Thoái Viện (Không Nhận Chức Vụ) 
38 Bản Chẩn (Chẩn Bịnh) 
39 Sắp Viên Tịch 
40 Lễ Nhập Quan 
41 Phép Đặt Quan Tài 
42 Lễ Hỏa Táng - thiêu xác 
43 Nhập Tháp 
44 Đấu Giá Đồ Vật 
45 Đặt trí Bài Vị 
46 Tân Tạo Tượng Phật 
47 Tu Sửa Kinh Điển 
48 Tạo Lập Tăng Xá (Tăng Phường
Chương 6: Hai Dãy Đông Tây Lang.
1 Ban Chức Sự 
2 Nhà Đông – Các Chức Vụ 
3 Nhà Tây – Các Chức Vụ 
4 Nhà Tây 
5 Nhà Đông 
6 Vâng Mệnh 
7 Mời cơm chay hay uống trà
Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng.
1 Về việc thế độ 
1.1 Tuân theo 10 điều quy định như sau: 
1.2 Hưng Chánh biện tà 
1.3 Nền tảng 5 giới 
1.4 10 chi giới pháp 
2 Lời phụ: qui tắc cạo tóc có 8 điều kiện
3 Phụ Về Đàn Giới: 
3.1 Niêm yết thông báo 
3.2 Lễ vật cúng dường 
3.3 Dự định lập các ban kiến đàn rõ ràng
3.4 Dự định công việc giới đàn
3.5 Vị Phụ Trách Tác Bạch 
3.6 Qui Tắc Thọ Giới 
4 Bồ Tát tóm tắt có 10 điều giới: 
4.1 Luận chung nhị thừa: Đại ThừaTiểu Thừa
4.2 Tôn trọng đúng luận sự lầm lỗi: 
4.3 Tuân lời dạy cổ nhân
4.4 Cử xứng người đức độ
4.5 Hòa chúng thanh tịnh nơi tịnh đường: 
4.6 Khiêm nhường kính trọng pháp Đại thừa, Tiểu thừa
4.7 Hợp đồng giản dị, có 5 loại giản dị như: 
4.8 Vâng pháp thính giáo
4.9 Giới thành tựu hợp pháp
4.10 Nghi lớn nêu ít dụ: 
5 Mười Quy Tắc Bố Tát 
5.1 Luật Thiện Kiến 
5.2 Lược rõ pháp Yết Ma sám hối
5.3 Tăng làm pháp yết ma tụng giới: 
5.4 Lại nói rõ pháp tăng lược tụng giới. 
5.5 Pháp đối thủ yết ma tụng giới: 
5.6 Tâm niệm pháp yết ma tụng giới: 
5.7 Luật Tỳ Kheo bày đúng chỉ sai: 
5.8 Tăng Bố Tát làm phép yết ma tụng giới: 
5.9 Luật Bồ Tát nêu đúng chỉ rõ sai: 
5.10 Phụ: hai chúng tại gia Bố Tát
6 Năm thiên sáu tụ giới: 
6.1 Năm thiên là: 
7 Hộ giới: 
8 Đạo cụ
9 Phụ: Biện chính thức Xoa Ma Na 
Chương 7: Phần sau - Đại chúng.
1 Treo đơn: 
2 An đơn: 
3 Cùng làm việc tập thể (phổ thỉnh): 
4 Quy tắc hằng ngày
5 Phụ: Người Xuất Gia 
6 Qui tắc sống chung 
7 Qui chế thiền đườngquy tắc tọa thiền
8 Qui tắc Phật thất 
9 Phụ: sớ hồi hướng Phật thất 
10 Phân từng khu phố (khất thực
11 Lượm được vật rơi 
12 Phụ: Qui tắc nơi tĩnh hành đường 
13 Phụ: săn sóc người bịnh 
14 Văn Cảnh tỉnh đại chúng 
15 Phú (phó) pháp 
16 Phái Nam Nhạc 
17 Chi Thanh Nguyên 
18 Phụ: Thiên Thai giáo quán tông 
19 Phụ: Hiền Thủ giáo quán tông 
20 Phụ: Nam Sơn Luật Tông
Chương tám: Tuổi đạo.
1 Niệm Phật trong mùa hạ 
2 Quy tắcgiảng đường 
3 Qui tắc phụ tọa chủ; gồm 9 điều 
4 Trích yếu quy tắc lễ Vu Lan 
5 Hiến cúng Vu Lan 
6 Chư Tăng thọ thực (lễ Vu Lan
7 Qui tắc lễ hội Vu Lan gồm có 18 điều:
8 Giải hạ 
9 Tọa thiền, chia thành 5 khóa: 
10 Qui tắc Thiền đường gồm 32 điều 
11 Thông báo mạnh đông 
12 Kiết đông 
13 Khởi thiền thất: bắt đầu tu thiền thất. 
14 Xả thiền thất 
15 Giải đông 
16 Tháng giêng: công việc mỗi tháng cần nên biết 
Chương chín: Những đồ pháp khí, hiệu lệnh.
1 Chuông 
2 Bảng 
3 Mỏ con cá 
4 Kiền chùy 
5 Khánh 
6 Trống 

Quyển Đầu

 BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM 
THANH QUY CHỨNG NGHĨA 


1.1 Lời Tự Trần

Sau khi dịch xong tác phẩmxem lại từ đầu chí cuối, dịch giả nhận ra điều này: mặc dù sách ví như kim chỉ nam của giới thiền gia, nhưng chưa thấy có ai dịch ra văn tiếng Việt, đó cũng là việc lạ mà không ai đủ thẩm quyền giải thích thỏa đáng. Theo nhận xét của riêng tôi, có quá nhiều vấn đề hay công việc mà ngày nay không còn thích hợp nữa. Nếu bỏ không dịch lại không đúng với nghĩa dịch thuật, còn như trung thành theo sách lại khó cho đọc giả hay hành giả với những việc mà hiện thời nghe quá xa lạ như ban sài, hầu liêu, liêu nguyên, tịnh đầu. Từ chỗ suy nghĩ đó cho ta có một cái nhìn phóng khoáng hơn để hiểu vấn đề cho tinh tường theo tinh thần giới luật, luật tắc hay luật lệ

Nói đến luật lệ hẳn có hai phạm trù tách biệt rời nhau giữa luật và lệ hoàn toàn không giống nhau. Luật của tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, thiền gia hay rộng hơn như quốc gia, quốc tế không thể làm khác được. Nếu người nào vi phạm hẳn bị phạt do theo mỗi qui định riêng của từng lãnh vực áp dụng. Trong khi lệ có tính co giãn (flexible), tùy nghi có thể đúng nơi này lại không hợp nơi khác, hay thời này áp dụng và bước sang giai đoạn khác hay thời khác lại quá xa lạ. Trong Bách Trượng Thanh Quy cũng vậy, có những lệ xưa, ngày nay không còn phù hợp nữa, nhưng chúng ta cũng cần phải biết mà chỉ biết ghi nhận chứ khó áp dụng vì thấy không còn thích ứng nữa.

Trong lúc dịch, chúng tôi cũng có tự ý thêm vào những từ cập nhật như thông báo trên đài, trên báo… là những việc mới phát sinh gần đây chưa lâu, nhưng là thực tế cần thiết mà các tòng lâm hay thiền môn không thể thiếu được. Ấy là chưa đề cập tới các phương tiện truyền thông đại chúng như email, website, mobile phone, cách đây nửa thế kỷ làm gì có và đâu ai sử dụng bao giờ. Nếu cho rằng ta cần nên cách mạng, sao còn để tồn đọng lại những việc xưa cũ như cúng trăng sao, cúng ông táo, cúng cầu sâu bọ đừng phá hại mùa màng hay những việc như bán đấu giá đồ vật của vị tăng quá cố, nhận vật rơi đem cất vô kho và thông báo cho chủ nhân tới nhận lại… đều là những sự kiện mà ngày nay được xem như là bất cập vậy. Có điều chúng tôi rất tâm đắctác phẩm có nhiều điều cần phải học mà chư Tổ đức đã dày công tạo nên trong chiều dài lịch sử hơn nghìn năm qua và còn lưu lại bây giờ cũng như mãi về sau. Bao nhiêu tâm tư và tuệ giác đã được hình thành mà hàng hậu bối thừa hưởng hôm nay, chúng ta phải xứng đáng nhận lấy vai trò là đàn con cháu của các Ngài trong hàng Thích tử

Cũng như những dịch phẩm trước, ở đây chúng tôi xin ghi nhận sự đóng góp vô cùng cao quí của hai ban: ban kỹ thuật, và ấn tống. 

Ban kỹ thuật gồm có đánh máy, lay out, bìa và in ấn. Phần này có những vị đã nhiệt tình làm việc bằng nhiều cách để mới thành hình được dịch phẩm này. Đó là T.T Thích Như Điển, Đ.Đ Thích Nguyên Tạng, Đ.Đ. Thích Hạnh Bình, Đ.Đ. Thích Phổ Huân, sư cô Thích Nữ Giác Anh, chú Hạnh Bổn, Phật tử Thiện Tuệ, quý cô Giác Duyên, Giác Trí, Giác Niệm, chú Giác Thuần, Phật tử Quảng Tuệ Duyên. 

Ban ấn tống do quí Phật tử: Chúc Quốc Lịch, Tiên Ngọc, Chúc Mân, Tâm Phước, Vi Quang, Diệu Ngọc, Ánh, Chúc Vân- Quí Hội, Hương Ngọc, Đức Phương, Túy Nga, Diệu Tịnh, Tâm Lan, Lê Văn Búp, Nguyễn Thị Chơn, Chúc Liêm, Diệu Yên, Quảng Thành. Tiền chuyên chở kinh do ban Ấn tống kinh chùa Viên Giác Đức quốc phát tâm cúng dường. Nguyện hồi hướng công đức này lên Tam Bảo chứng minh gia hộ quí vị Bồ đề tâm kiên cố, thân tâm an tịnhđạo quả viên thành

Sau nữa, dịch giả ngưỡng mong chư tôn đức tăng già hoan hỷ những chỗ sai lầm thiếu sót trong bản dịch, và cũng xin quí Ngài và quí vị thức giả vui lòng bổ chính giúp những điểm lệch lạc, sai trái để cuốn sách được hoàn chỉnh trong dịp tái bản lần tới. 

Nguyện hào quang chư Phật soi sáng chan hòa Phật Pháp tới khắp mọi người và mọi nhà để cho tất cả đều được thấm nhuần pháp giải thoát trong đời sống hiện tại và tương lai. Với tâm thành dịch giả cầu nguyện quí vị và pháp giới chúng sanh người còn an lạc, kẻ thác sớm được vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc quốc. 

Sydney mồng 9 tháng 11 năm Đinh Hợi, 
 nhằm ngày 18 tháng 12 năm 2007.

Sa môn Thích Bảo Lạc
 
 


1.2 Lời Tựa Đầu Tiên 

Lời Tựa Đầu Tiên Cuốn Bách Trượng 
Thanh Quy Hàn Lâm Học Sĩ Dương Ức Khai Quốc Hầu Thuật 

Bách Trượng Đại Trí thiền sư ứng dụng thiền từ Thiếu Thất (Đạt Ma) đến Tào Khê (Lục Tổ) tới lúc đó phần nhiều Ngài ở chùa luật tông. Tuy sinh hoạt nơi biệt viện nhưng đối với những việc thuyết pháp, trụ trì… chưa đúng Qui Tắc nên Ngài thường ôm hoài bão muốn chấn chỉnh; bèn cho rằng đạo của Phật Tổ là muốn giữ nguyên không bị biến thái, đâu có phải cùng hành như phái A Cấp Ma Giáo ư? Hoặc nói các Kinh Du Già, Anh Lạcgiới luật Đại thừa cớ sao y cứ vào đó chứ?

Ngài nói: Tông của ta không hạn cuộc Đại - Tiểu thừa; không khác Tiểu hay Đại thừa mà đem chiết trung chỗ sâu rộng lập ra qui tắc, miển sao cho thích hợp. Như thế ngài có sáng kiến lập thiền riêng là ở phàm mà vẫn đầy đủ đạo nhãn, có đức đáng tôn gọi là trưởng lão. Bên Ấn Độ vị trưởng lão đạo cao hạ lạp thâm niên được gọi là A Xà Lê, là vị thầy Giáo Thọ chính ngạch. Vị thầy ở nơi phương trượng như căn nhà nhỏ của Duy Ma Cật, không phải chỉ riêng phòng ngủ mà nơi đó còn là điện thờ nữa. Ở trước là Thọ Pháp đường tiêu biểu Phật Tổ quen thuộc mà đương thời tỏ lòng tôn kính. Nơi qui tụ đồ chúng không cần nhiều hay ít, cao hay thấp mà hể người đã vào tăng viện rồi đều căn cứ tuổi hạ mà sắp xếp, đặt giường theo dãy dài có hộc tủ, giá móc đồ đạc. Khi ngủ hẳn cần mền gối, nằm phải nghiêng bên phải theo thế kiết tường. Do vì hành giả ngồi thiền lâu chỉ cần chỗ đặt lưng xuống nghỉ phải đủ phép oai nghi. Trừ nhập thất, làm việc chung, học tập không phân trên dưới, không theo tiêu chuẩn, nhưng hể người đã nhập chúng (tăng viện) rồi thì sáng phải tham thiền, công phu, làm việc, tối tùng chúng tụng kinh, học tập, hội họp…

Bậc trưởng lão thăng tòa thuyết pháp, chủ sự làm việc chúng, lớp lang thứ tự, chủ khách thăm hỏi nhau. Xiển dương tông yếu là biểu hiện y pháp thực hành

Ngày hai buổi cháo cơm tùy nghi thích hợp, cần kiệm miển sao cho dòng pháp mạch lưu thông. Công tác tập thể dưới trên đều góp sức, cắt đặt 10 việc xá (phòng) mỗi việc cử một người lãnh đạo trông coi chúng làm việc, làm cho mọi việc đều chu toàn. Nếu có ai giả dạng trá hình trà trộn trong chúng thanh tịnh, gây động chúng; liền phải cho Duy Na kiểm tra đưa ra giữa chúng xử phạt hay tẩn xuất ra khỏi viện, cốt giữ cho chúng được thanh tịnh. Nếu như có người phạm lỗi phải họp chúng bàn thảo hình phạt phải thích đáng rồi cho ra khỏi chùa như hình thức tẩn xuất, làm cho đương sự hổ trẽn. Hình phạt này có 4 điểm lợi:

1- Giữ cho trong chúng thanh tịnh làm cho người tin kính, 
2- Không làm mất thể cách vị tăng để tuân lời Phật dạy
3- Không làm quấy nhiễu cửa chùa, dè dặt đến cửa quan, 
4- Không tiết lộ ra ngoài để giữ gìn tông phong.

Chúng cùng ở chung, thánh phàm cho rõ ràng. Ngay như khi Phật còn tại thế mà bọn lục quần Tỳ kheo còn quấy phá; huống chi ngày nay thuộc đời mạt pháp, đâu thể hoàn toàn không lỗi lầm được! Khi thấy một vị tăng phạm lỗi liền đem ra khiển trách (chỉ lỗi), còn hơn là chẳng biết để chúng coi thường làm hại giáo pháp, gây tổn thương cho đạo không nhỏ vậy.

Ngày nay thiền môn như ít đề phòng chỗ phương hại nên theo Thanh Quy tòng lâm của Bách Trượng có phân định từng mục, từng phần các việc hẳn hoi. Vả lại, luật pháp để phòng gian, không phải là để cho bậc hiền sĩ, thà có tư cách không phạm lỗi hơn là phạm mà không giáo hóa. Đại Trí thiền sư lập Thanh Quy- duy trì Phật pháp- thật lợi ích biết bao nhiêu! Đây là qui tắc duy nhất trong thiền môn được xem là xưa nhất. Đại cương của thanh qui định nơi Thanh Quy thứ mục rất thứ tự rõ ràng, lượng được chỗ yếu chỉ san định lại làm đèn sáng cho lớp đàn em. 

Nhân đây mà viết lời tựa này.


1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa

Quốc gia (chính phủ) trị dân có luật và lệ, Phật Tổ dạy chúng tănggiới luậtThanh Quy. Đạo Phật cũng như đạo Nho có luật; chỉ có điều Phật nói luật nhưng không nói thừa.

Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch. Ngài vâng sắc chỉ của vua soạn ra Thanh Quy để ngăn trừ lỗi phạm của hàng tăng đương thời mà lưu lại tới đời Đường (618-907). Vào đời nhà Lương thiền nói riêng và Phật giáo nói chung chưa lớn mạnh, đến đời Đường giáo pháp Thiền có thể nói rất là cực thịnh. Ngài Bách Trượng sưu tập lại thành sách nên đặc biệt đề tên Ngài làm tên sách.

Toàn bộ gồm có 9 chương: chúc quốc gia hùng mạnh, dân tộc phú cường, báo đáp thâm ân như cha mẹ, sư trưởng, ân vua và ân Tam Bảo. Uống nước phải nhớ nguồn; những ngày vía Phật, Bồ Tát, những ngày giỗ kỵ chư Tổ sư tiền bối dày công xây nền đạo. Chương Trụ Trì có những công việc thiết yếu cần hành xử thích hợp như hai dãy Đông-Tây liêu chúng, các ban chức sự, pháp lục hòa sống giữa chúng. An cư kiết hạ, tuổi đạo (hạ lạp) và chương cuối cùngpháp khí dùng trong chùa như chuông, trống, vân bảng, khánh, linh v.v… đều đưa vào Thanh Quy làm hiệu lệnh cho nhân thiên để lưu truyền rộng rãi.

Lành thay! Bậc sư biểu chỉ Bách Trượng Đại Trí là một người tiêu biểu nổi bật. Sách “Bổn Sơn Các ký” ghi rằng: “Đạo của Phật nhờ Đạt Ma mà sáng,việc của Phật nhờ Bách Trượng mà hoàn bị” Dù đời có lắm thiên sai vạn biệt, những hơn thua, bỉ thử, một mặt buông một mặt níu bất nhất. Văn phong có làm phật lòng một số người, nhưng không thể không mỗ xẻ phân tích để cho thật lợi ích nhiều người. Cho chí những đề cương, tiết mục lớn chưa từng thiếu trong Thanh Quy này. Tiếc thay việc lưu truyền đã lâu nên chân ngụy xen tạp khó phân. Cũng vì Phật Pháp đang trong buổi suy vi, giới luật như bị lơ là bỏ phế. Ôi, Thanh Quy đây ở vào lợi thế cao vút như thế- cứu nguy của thời đại- nên gấp phổ biến sách này vậy.

Ở đây tôi (Tỳ kheo Nghi Nhuận) tham khảo nhiều sách, chỉ có cuốn này là quá tuyệt, thấy các chương mục cũng giống như trong Đại Tạng Kinh và gần giống như mục lục cuốn “Liệt Tổ đề cương”, văn gọn mà lại trong sáng, nghĩa rõ ràng lại thâm sâu. Nghĩa lý đầy đủ nên có thể nói là sách khá hoàn bị. Hễ nghiên đọc dù kẻ căn sắc bén hay chậm lụt gì đều được lợi cả, nên không gian hay thời gian không còn là vấn đề nữa. Song sợ kẻ sơ tâm chưa am tường nên dẫn lời bậc cổ đức thành văn giải sơ lược để chứng minh đó, cốt để nêu lên yếu nghĩa càng làm cho thêm rõ ràng, gọi là Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy chứng nghĩa ký làm duyên khởi cho cuốn sách.

Muốn tường tận ý nghĩa mong cho bậc thức giả đọc nội dung sách và cũng mong được chư vị tiếp tay lưu hành rộng rãi. Mấy lời sơ lược cẩn bạch cùng chư phương hiền giả liễu tri.

Đạo Quang năm thứ ba, nhằm năm Quí Mùi nhân ngày lễ Tự Tứ giải hạ, tại tệ liêu thư phòng chùa Chân Tịch- Cổ Hàng.

Cẩn bạch

Tỳ Kheo Nghi Nhuận


1.4 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa

Thanh Quy một quyển tương truyền là của thiền sư Bách Trượng Hoài Hải lấy bản nguyên thủy của ngài Pháp Vân đời Lương, phụng sắc chỉ vua soạn ra mà tham khảo, sửa đổi đem khắc in lại. 

Ngài vốn người Mân Trung (Phúc kiến) xã Phước Châu, huyện Trường Lạc, là con của giòng họ Vương. Từ nhỏ đã có chí xuất gia tự cạo tóc, cho tới lúc đắc pháp (gặp thầy ấn chứng). Ngài ẩn tu nơi núi non, tiếng đồn ra nên mới dốc lòng đi khắp bốn phương cầu học, đặc biệt lưu tâm tới luật tắc thiền. Lớn tuổi, ngài trụ tích ở chùa Thọ Thánh thiền tự thuộc Bách Trượng sơn tại Hồng Châu. Do qui tắc cũ ngài Pháp Vân soạn chưa hết bèn cố công đọc lại luật tạng rút tỉa góp nhặt những tinh yếu soạn lại để chứng minh cho người sau hiểu rõ yếu nghĩa mô phạm trong Phật giáođạo giáo. Người học đạo cố chấp nên đặt tin tưởng nơi một cuốn sách. Rất tiếc là sách ấy ở Triết giang nhưng bị thất lạc, tăng sa môn Mân (Phúc kiến) suốt đời lại không thấy được mà chỉ nghe được vài chương thiếu khuyết sai lầm quá nhiều, bèn muốn gởi mua một cuốn khác giá trị để đối chiếu khắc bản in lại nhưng ở Tây Hồ qua cuộc binh biến trước đó các bản kinh cũ bị thiêu rụi sạch. 

Ôi! Khuôn phép người trước đây sao mà mai một đến thế? Vì chỗ lo sợ đó nên không quản vất vả nhiều cách sưu tầm hỏi thăm may mắn gặp được đúng cuốn sách muốn tìm ở chùa Mã Não. Vui mừng khôn tả cầm sách đến thương lượng các pháp lữ là Thiên Thành, Từ Thủ, Từ Định và Chiếu Nhân, cả bốn vị đều rất lấy làm phấn khởi vui mừng việc này vô kể. Nhân đó cùng quyên góp thiền sinh chúng thường trụ thuộc các sơn môn; đọc kỹ lại rồi cho khắc in để lưu thông rộng rãi

Ước nguyện chân thành là vâng giữ làm đúng qui tắc mong không phụ chí nguyện tu hành đạo xuất thế mà như tôi đã lược thuật ở phần duyên khởi để ghi lại sơ lược.

Quang tự năm thứ tư ngày tốt tháng quế năm Mậu Dần,
 viết tại Thiền Thất Long Đàm.

Tỳ Kheo Giám Viện Càn Đà


1.5 Lời Bạt

Bách Trượng thiền sư viết Thanh Quy gồm 9 chương mà phần luận thuật đều mô tả qui tắc thuần túy, lại được tỳ kheo Nghi Nhuận về sau dẫn thêm sự tích xưa thành lời giải thích bằng yếu nghĩa câu văn chứng minh rõ ràng khiến người học lớp sau một khi xem là thấy rõ như xem chỉ bàn tay, đó là công dụng của cuốn sách dạy cho ta vậy. Nên suy nghĩ tới lời Phật dạy: Thuyết pháp là đàm KHÔNG, nhưng trước hết nếu không từ thật lo công phu thì đạt đến không môn trong tương lai do đâu ngộ được? Cho nên hễ có đạo ắt có việc mà trong Thanh Quy đã đề cập. Đã có công hành trì hẳn có quả thực tế liền theo sau, cho dù siêu phàm nhập thánh cũng không phụ chí người học hạnh xuất thế

Người xưa nói rằng: “Ngộ được khổ ở trong khổ mới là người đáng bậc thượng nhơn; vị tỳ kheo một bát cơm nguyên chẳng làm tự nhiên có được”. Mong cùng nhau tham cứu cùng với đại chúng sách tấn tu tập vậy. 

Chùa Hoa Lâm tại Lãnh Nam, kính đề lời bạt. 

Hậu học Khoáng Nhàn


1.6 Thanh Quy Thiền Môn

Thanh Quy Thiền Môn do Tổ Bách Trượng soạn toàn quyển (bộ) gồm 9 chương

1. Chúc nước giàu dân mạnh
2. Báo ân: đáp đền những ân đức cao trọng
3. Báo bổn (báo gốc): uống nước nhớ nguồn những ngày lễ vía Phật, Bồ Tát
4. Ân đức Tổ xây nền đạo
5. Vai trò trụ trì 
6. Hai dãy Đông – Tây liêu chúng
7. Giữ phép lục hòa trong chúng
8. Kiết hạ an cư
9. Pháp khí, Hiệu lịnh trong chùa.

Phàm Lệ

Xác minh Thanh Quy cần có 13 điều như sau:

1- Thanh Quy từ đời Đường (thế kỷ 8) đến nay, thời gian đã lâu trên hơn 1200 năm. Tăng tôi liệt nêu điểm đặc thù của cổ kim, phong tục có khác nhau Nam-Bắc, do chưa thể thích hợp thời cơ; phép tắc có thêm bớt; hành theo gốc chung bắt nguồn từ đó. Nhưng các sách lưu hành hiện nay nếu không mắc phải lỗi quá rườm rà, cũng rơi nhằm chỗ quá giản lược. Quá rườm rà thì không hợp chỗ tịnh tu, quá giản lược lại không đáp ứng được việc thực hành. Duy chỉ có sách này không rườm rà cũng không quá giản lược mà ở bậc trung. Văn các nghi hàm đủ mà lý rõ ràng dễ dàng cho việc hành trì; lại rất thích hợp thời nghi đáng làm kim chỉ nam. 

2- Từ Ngài Bách Trượng đến nay qua nhiều thời đại, lâu dài Thanh Quy nguyên gốc không có để khảo chứng mà bản còn lưu hành hiện nay phần nhiều do sự tích hậu thế. Tưởng cũng nên biết bản gốc viết tay do Bách Trượng hiệu đính đã bị thất truyền từ lâu. Nhưng không thể cho rằng sách này không phải do chính tay Bách Trượng hiệu đính mà không chỉ dẫn đúng, chính xác. Người nào tham cứu những việc cận đại hẳn thấy liên hệ tri thức lâu đời, tùy thời gian tùy nơi chốn mà việc trở nên dễ nhận biết. Bởi vì lễ tùy nghi có thay đổi mà dung thông để được lợi ích chung. Người xưa nói rằng: lời nói không có cũ mới hễ hợp lý là hơn; chỉ e người đọc thấy những việc cận đại nghi cho rằng không phải nguyên bản của Bách Trượng mà sanh tâm khinh thường mới đặc biệt nêu lên điểm này. 

3- Thanh Quy nguyên gốc gồm có 9 chương, nay y theo đó liệt nêu các quyển. Chỉ có một phần Thủy Lục, nguyên ở chương Trú Trì, do văn quá dài nên nay in ở một cuốn riêng. 

4- Các danh từ của Thanh Quy có cả cổ kim lẫn lộn. Như cổ gọi đầu thủ, nay gọi là Thủ tòa hoặc gọi là Tòa nguyên. Cổ xưng Giám tự, nay gọi là Giám viện; thậm chí thư trạng nay đổi gọi là thư ký hay tăng đường nay đổi thành thiền đường; cho dù đổi tên mà không đổi ý nghĩa. Vã lại, trong những điều quy định trước có mà nay không như điểm trà, xạ hương v.v…; trước không mà nay có như kỵ tổ thêm Bách Trượng, Thủy lục thêm Vân Sái… và không có ngay cả việc như xin lửa v.v…

5- Thanh Quy lưu truyền đã lâu không sao khỏi lấy giả truyền giả, như chữ chấp trong từ chấp sự, khảo rộng trong tự điển (Phật) không có chữ cho chức đó. Bởi vì chấp có nghĩa là chấp trì; người nắm giữ việc mà nhờ người làm, tuy nêu các chức của người giữ chức đó, nhưng do chấp là chức nên rốt cuộc thành gượng ép. Ngoài ra, như sai lầm về 3 y, như cúng thí thực v.v… nên ở đây cần phải đính chính sửa đổi

6- Tập trung nghĩa không chẳng đầy đủ nhưng văn có lược rõ như nghi chúc diên có nêu rõ nơi chương đầu, lược bớt ở tiết bốn chúc thọ dịp Tết Nguyên Đán; lược bỏ những ngày sóc vọng (rằm, mồng một). Ngoài ra, những việc hằng ngày không thể nêu lên hết được. Nên nói rằng sách không thể nói hết lời, lời không thể hết ý mà chỉ do người khéo lãnh hộiđạt được

7- Phật sựtòng lâm tuy nhiều song không ngoài 4 việc:

a- Chỉ 

b- Trì (chỉ tức ngăn dứt ác; trì là giữ giới, trì giới

c- Tác trì (giữ các oai nghi tế hạnh

d- Tụng niệm (làm cho pháp âm lan rộng); 

Thuyết pháp (chuyển pháp luân hay truyền bá giáo pháp khắp nơi, làm tỏ rõ đệ nhứt nghĩa) hoặc chỉ do một việc, hai việc hay kiêm cả ba; hoặc do một mà hàm đủ cả bốn, chỉ do nơi vị Trụ Trì tùy nghi thiết đặt, đôi đàng hòa hài sao cho được lợi lạc. Quy tắc cổ không thấy xuất hiện đời nay.

8- Sách này từ ngài Phương Trượng cho đến ban chấp sự không một người nào chẳng đọc qua, mà với kẻ mới học thật là cần thiết để việc hành trì được thuần thục; chẳng nên gặp việc không nghi. Vã nhờ đó hành giả mới có thể thúc liễm hình nghi, huân tập tâm thức; hiện tại không buông lung gây thêm lầm lỗi, mai hậu mới xứng đáng bậc thầy mô phạm làm lợi ích không nhỏ vậy. Nên xem thêm sách Thành Nghi Nhơn Phụng cho đầy đủ hơn. 

9- Sách này, ba hạng căn đều được lợi, người lợi độn căn đều thấm nhuần một lần đọc qua dường như văn dễ hiểu, đọc kỹ lại đến lần thứ ba, thứ tư nghĩa lý thâm sâu khó lường. Kẻ thô tâm hời hợt trong sách khó mong nuốt trôi. Trong tập này đối với chỗ nghĩa sâu khó hiểu thời dẫn chứng nghĩa rõ ràng dễ hiểu để tiện cho người sơ cơ lãnh hội.

10- Phần chứng nghĩa hoặc theo văn giải thích hoặc mượn sự rõ lý, như Nguyệt Kỵ, Tịnh Đầu v.v… hay bổ sung thêm nghĩa hoặc suy rộng diễn sâu cho người đọc đều phải lưu tâm chú ý.

11- Chứng nghĩa tuy do người chấp bút (Nghi Nhuận), nhưng lời dẫn phần nhiều do từ bậc cổ đức tức đem cổ so kim cho người dễ sanh lòng tin. Dẫn giải có chứng cứ như từ nhân vật nào, sách nào hẳn có nêu rõ danh mục. Nếu trích chương đoạn lấy y nghĩa mà không ghi rõ danh mục tức là thất sách, đâu dám lấy đó làm hay đẹp.

12- Tập trung tất cả văn chú giải, tưởng chừng như chẳng phải Bách Trượng trước thuật; cho nên sách của Ngài hoặc có trích dẫn hay không, nhưng với hàng Thích tử, không nên lấy lời phù phiếm làm công khóa để phân tâm tu tậpcăn cứ vào việc, mệnh lệnh không thể không tin tưởng nơi sự thích đáng. Cho nên ở đây vẫn chiếu theo nguyên bản ghi ra để người sử dụng thấy được sự thật; lại cũng đâu dám quá lời cho là tri thức nhưng cũng phải bổ khuyết thêm một ít.

13- Trừ Thanh Quy ngoài tạng bản ra, sách khắc in gần đây, thậm chí việc sao chép lại hoặc do không để ý làm sai lạc, hoặc do tự ý thêm bớt đem giả truyền giả, dần dần làm mất nguyên bản làm cho sự liên hệ di ngôn của lão Tổ về Quy tắc tòng lâm thật chẳng còn tinh tế. Nghi Nhuận tỳ kheo tôi có được bản văn này đem đối chiếu với tạng bản chừng như rập khuôn đại bộ không khác biệt. Nhân đó suy ra, đây là sách quí nên gấp phải lưu truyền rộng không để bị thất thoát mai một. Mỗi tắc một thuyết như dưới đây để chứng minh lời nói trên đây, mong người đọc giở sách đọc kỹ hẳn rõ, không còn nghi ngờ gì nữa. Ngưỡng mong các bậc cao minh kỳ túc bổ chính chỗ sai sót lỗi lầm, được vậy xin dám khắc cốt ghi tâm. Mong thay! Cũng mong các bậc thiện trí thức hiểu sâu ý Tổ, khéo thích hợp tùy nghi mà hiệu chính chỗ sai sót thì thật là vạn hạnh!


1.7 Tán

Tây Phương văn tự vốn toàn vô,
Hoài Hải Thiền Sư bậc phạm mô[1],
Một quyển Thanh Quy như gậy hét,
Còn hơn hậu thế lập phù đồ[2].
Sáu thời lễ tụng ngọn đèn chăm[3],
Tinh tấn cần tu mô phạm Tăng,
Thanh Quy không dụng như khuôn thước,
Nam thiền đảo ngược pháp Huệ Năng[4].
Đầu non Bách Trượng[5] nhụy đơm hoa,
Tích xưa phòng xá của Duy Ma[6],
Xuất gia vui đạo nhàn thanh tịnh,
Nên biết thiền môn sự sự đa.
Bến thanh đây dõi bước dò tầm,
Người tìm thoạt chứng ngộ thiền tâm,
Cành Nam, hướng Bắc phơ phơ động,
Bên tai đồng vọng pháp phạm âm[7].
Nam Huân – Tử Hư cư sĩ tại Nam Hải


1.8 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng

Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, Chùa Chân Tịch
 tại Cổ Hàng Trụ Trì Diệu Vĩnh giảo chính, Chùa Giới Châu tại Việt Thành

Đây là Thanh Quy chứng nghĩa, trước hết nói rõ 5 trùng nguyên nghĩa:

1- Lấy nhơn dụ - pháp làm danh
2- Quyền - thật - tướng làm thể
3- Giữ luật lệ nội hộ làm tông
4- Y pháp rõ sự làm dụng
5- Lấy sữa đặc bơ và dụng là giáo tướng.

1.8.1 Lấy nhơn – dụ - pháp làm danh

Trước tiên về nhơn dụ - pháp làm danh. Giải Nhơn vật là Bách Trượng hai chữ. Nhơn tức là Ngài Bách Trượng – tên bổn sơn mà nhiều người quen gọi là Đại Hùng Sơn, đường Long Hưng cách Quận Trị 300 dặm tại Hồng Châu, nay thuộc phủ Nam Xương, huyện Phụng Tân. Ngài là Hoài Hải đại sư, họ Vương ở thôn Trường Lạc, xã Phước Châu. Năm 20 tuổi Ngài thế phát xuất gia với Hòa Thượng Huệ Chiếu ở Tây Sơn, thọ Tỳ kheo giới với Pháp Triêu luật sưHoành Sơn, đắc pháp với Mã Tổ Đại Tịch thiền sưGiang Tây; nhưng thuộc đời Chánh tông thứ 2 thiền phái Nam Nhạc. Ngài trụ ở núi Nam Nhạc này, Chùa Đại Trí Thọ Thánh Thiền Tự và phát huy thiền tông rất mạnh, chuyên hành trì giới luật nghiêm minh, thường dùng Chùa Lương Triều Quang Trạch làm đạo tràng vân tập chúng tăng, tận lực lập tăng chế, cho trùng tuyên luật tạng tham bác rộng, phân tích chi li, lập quy chế; công việc làm thích hợp thời cơ. Ngoài ra, chính Ngài lấy mình làm gương mẫu như mỗi ngày ra sức làm việc làm chỉ nam cho chúng. Chúng khuyến thỉnh thôi làm việc, Ngài bảo:

- “Ta không có đức nên dùng sức người”. 

Chúng bèn thôi không khuyên nữa. Ngài liền nhịn ăn và nêu rõ mục tiêu: “một ngày không làm là một ngày không ăn”, nay còn truyền rộng trong đời. Ngài viên tịch vào ngày 17 tháng giêng năm Nguyên Hòa thứ 9, thọ 95 tuổi. Đến năm Nguyên Hòa thứ 13 cải táng mộ Ngài tại núi này. 

Vào niên hiệu Trường Khánh nguyên niên, Vua sắc phong Ngài là Đại Trí thiền sư và hiệu tháp là Đại Bảo Thắng Luân, và Thanh Quy Ngài được lưu hành rộng rãi. Vào đời nhà Tống (tk10) niên hiệu Đại Quang nguyên niên, được Vua phong thêm hiệu Giác Chiếu và tháp hiệu là Huệ Tụ. In khắc lại Thanh Quy vào đời Nguyên, niên hiệu Nguyên Thống năm thứ 3, Vua sắc phong Ngài là Hoằng Tông Diệu Hạnh thiền sư hiệu Tăng Đức Huy; và cho trùng tu lại Thanh Quy lưu hành chốn tòng lâm

Xưa Tư Mã đầu đà thường lại núi Bách Trượng toản ký, trong có bậc pháp vương cư trú, làm thầy tiêu biểu trong thiên hạ, thật là ứng hợp vậy. Y cứ theo bản đồ, Bách Trượng là tên núi mà Bách Trượng nói đây thuộc về Hồng Châu vậy. Lại từ đời Đường trở đi Bách Trượng là tên người, nhưng làm nổi bật một số người trước tác. Ở đây xưng là Hoài Hải Lão Tổ Bách Trượng, đó là đã giải lược về người xong.

Tiếp đây giải thích Dụ: Hai từ tòng lâm là Dụ; tòng lâm là một nơi thảo mộc đan xen dụ cho tăng phường, nơi chúng tăng cư trú, chỗ một số tịnh hạnh nhơn tu hành, điểm phát xuất gieo mầm đạo hướng đến Thánh quả, đem lại lợi lạc cho quần sanh. Lại theo nghĩa này có đầy đủ trong các kinh luật, như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Ly thế nhàn có bài kệ thế này:

Bồ Tát Diệu Pháp Thọ
Trực tâm đất phát sanh
Tín căn từ bi hạnh
Trí huệ ấy là thân
Phương tiện chính cành nhánh
Năm độ thêm sung thạnh
Lá định, hoa thần thông
Nhứt thiết trí quả lành.

Ngoài ra, Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Thảo dụ cũng dùng thảo mộc tòng lâm để dụ người tùy cơ thọ sự giáo hóa. Cũng như trong luật có nêu rõ: phàm từ 4 vị tăng trở lên cho đến trăm ngàn vị cùng ở chung một nơi là đúng pháp biện sự, như nước với sữa hòa hợp gọi là tòng lâm. Suy rộng tiếng Tỳ Kheo mà xưng là Bí Sô, theo Tây Vức (Ấn Độ) gọi là cỏ có 5 đức:

1- Tánh mềm mại dụ cho đức định của vị tăng nhiếp phục được thân tâm không để thô lậu.

2- Như vải đan bện với nhau dụ huệ đức của vị tăng trong việc truyền pháp độ người như gấm bền không đứt.

3- Hương phảng phất bay dụ giới đức; hương giới thoảng mùi thơm làm cho mọi người nể trọng.

4- Hay trị lành bịnh đau nhức dụ đức giải thoát, có thể đoạn dứt phiền não làm cho mầm độc hại không khởi.

5- Không phản lại ánh sáng mặt trời, dụ đức giải thoát tri kiến; thường hướng tuệ quang Phật nhựt tỏa chiếu, giải thoát mọi tà kiến, tà nghiệp, cho nên Tỳ Kheo xưng Bí Sô là vậy.

Căn cứ hai thí dụ thảo mộc trên cho thấy làm vị tăng hoàn toàn nương vào sự tu tập làm gốc, cho nên nói rằng, trụ trìđạo đức, tòng lâm ngày càng hưng thạnh; thiếu đạo đức tòng lâm càng thêm nguy khốn. Chúng tăng đủ 5 đức có quy củ thật xứng đáng; không quy tắchoàn toàn hỏng bét. Song quy tắc tòng lâm đâu phải dễ duy trìTỳ Kheo cũng đâu có dễ xưng gọi được! Trên đây là giải thích dụ xong.

Tiếp theo giải thích Pháp: Hai chữ Thanh Quy là Pháp. Trước hết dựa vào sự giải thích có nghĩa là gạn cho lắng sạch, mô phạm thanh bạch, trải ra hằng ngày mà xiển dương giáo pháp Phật đà. Lại Thanh Quy chế định theo pháp có từng phẩm mục. Dựa theo cuốn 10 thuộc Hữu Bộ có đề cập 101 pháp Yết Ma, đức Phật dạy: “Vả như gặp việc mình tự ra trước chúng sám hối; không lừa dối, không che đậy. Như đối với một việc thuận theo là không thanh tịnh; ngược lại là thanh tịnh. Đây là việc bất tịnh đều không nên làm. Nếu như một việc thuận là thanh tịnh, ngược lại là không thanh tịnh. Đây là việc tịnh nên thuận theo mà làm”.

Luật Tứ Phần ghi: “Như Phật chế định không nên từ khước; không phải Phật chế thời không được chế”. Lời này dựa theo Thanh Quy Tổ Bách Trượng nhắc lại ý đó.

Ngoài ra, Kinh Phạm Võng ghi: “Lúc mời tăng phước điền cầu nguyện nên vào hàng tăng phường[8] hỏi vị Tri sự xem, nay tôi (con) muốn thỉnh Tăng cầu nguyện.”

Thầy Trị sự đáp rằng: “Cứ theo thứ tự mời thỉnh. Như thế là mời được 10 phương các bậc hiền thánh tăng.”

Ngoài ra, luật Tứ Phần cuốn 10 mục Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề ghi rằng: “Bạch Đại Đức, nay vì Ngài nên có người gởi chiếc y giá trị này Thầy nên nhận cho”. 

Vị Tỳ Kheo đó nên đáp: “Kia nhờ nói lời như thế, tôi không nên nhận y giá trị này. Nếu tôi cần y hợp thời thanh tịnh mới thọ”. 

Vị Tỳ Kheo kia thay lời người ấy hỏi rằng: “Bạch Đại Đức, có người giúp việc không?” 

Vị Tỳ Kheo cần y nên đáp rằng[9]: “Có, hoặc người trong tăng già lam (chùa viện) hay là Ưu Bà Tắc. Vị Tỳ Kheo chấp sự này thường vì các Tỳ kheo mà làm việc đó.” 

Lại như Kinh Dược Sư ghi rằng: “Có người tuy chẳng phá giới[10] nhưng lại phá phép tắc”.

Nên biết Thanh Quy tòng lâm hồi Phật tại thế đã có rồi. Khi Phật giáo vào Trung quốc, từ đời Hán Minh Đế (thế kỷ thứ 1 Tây lịch) trở đi, nơi chúng tăng cư trú đông gọi là tòng lâm. Theo đúng giới luật hành trìThanh Quy vậy. Đến đời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) thời kỳ Ngài Bách Trượng, Thanh Quy lưu hành tại Trung quốc đã hơn 600 năm rồi. Lâu ngày con người sanh tệ nên Tổ mới đề ra pháp này, ngỏ hầu gia tâm chấn chỉnh để lưu đức cho hậu thế. Kinh Hoa Nghiêm phẩm Hồi Hướng ghi rằng: “Bồ Tát lấy pháp thí làm đầu để nẩy sanh các thiện pháp thanh tịnh; gìn giữ đạt đến nhứt thiết trí”, đó là ý của Lão Tổ vậy.

Kế dựa theo lý giải thích: giới châu của Ngài Diệu Vĩnh giải chữ Thanh Quy như sau: như tâm ta vốn đầy đủ cái diệu đạo viên mãn. Luận tâm vốn viên minh; chỉ do mê, ngộ có khác; qua lại 10 cõi mà có khác biệt y-chánh báo, song pháp tánh vốn đồng và đầy đủ vậy. Nhưng tâm chuẩn mực của ta đầy đủ tất cả, hàm 10 cõi y chánh báo không thừa, là đồng nhau vậy; do cơ cảm mê ngộ nhân quả không sai lầm, là quy vậy. Thành sựvạn pháp nhưng không lệch, không lệch là trung vậy. Không dư thừa là giả vậy; không khác ấy là không vậy; không là giả, giả là trung, là 3 pháp quán tâm ta đó. Ba pháp quán đó có thể là dụng của quy tắc, KHÔNG chiếu chân dứt bợn trần, giả chiếu tục lồng trong vạn hữu, trung chiếu cả hai mà, không trụ ở hai. Chân là nhất chân, hết thảy chân, không tục không trung mà chẳng phải chân. Tục là nhất tục, hết thảy tục, không chân, không trung mà chẳng phải tục. Trung là nhất trung, hết thảy trung, không tục, không chân mà chẳng phải trung. Chân ấy, tục ấy, trung ấy tức là 3 đế nơi tâm ta. Ba đế ấy nương vào thể của phép tắc, do đấy bản thể khó mất, cho nên lấy pháp làm chuẩn đích. Đối với Phật giáo là luật tắc, Nho giáoluật lệ, còn Tổ Bách Trượng gọi đó là Thanh Quy vậy. Tuy nhập thế - xuất thế không đồng, dù dứt ác sanh thiện tuy khác tên mà đồng nghĩa vậy. Đây gọi Thanh Quypháp như trên đã giải xong.

Đi vào phần chi tiết hẳn thấy rộng hơn như sau đây: qui định giải thích dụ cong ngay thành vuông vức, nay dựa trí đại chúng như cỏ do hộ trì giới luật trình bày. Lấy Kinh Kim Quang Minh giải thích làm thí dụ: Quy tức là pháp vậy.

1.8.2 Quyền - Thật - Tướng Làm Thể

Sách Trì Pháp Tụ ghi rằng, đạo vốn thật tế nhưng lễ, nhạc, pháp chế là quyền của chế hóa vậy. Không quyền thì giáo không lập mà đạo cũng không hành được. Khổng Tử viết bộ Xuân Thu, trước thuật sách Lễ Ký… là hoàn bị quyền pháp chế (pháp định). Muốn không dùng lời chỉ còn một cách là quán thông để hiển tỏ cái thật của tánh giác, tức hồng ân chư Phật rõ suốt ba cõi.

Pháp biến hóa một khi phát chiếu tự giác sinh hiện lượng thánh trí. Dùng khai – giá – trì - phạm của quyền - thật tướng làm hiển phát sự tin hiểu là thể dụng của hành chứng được nhất như

Như hội Linh Sơn có số chúng đông đến trăm vạn người mà có được sự hòa hài không trái chống nhau, chẳng làm mất thanh danh như nước hòa với sữa, nên mới có câu rằng: “không trị mà chẳng loạn; không nói mà tự tin, nhìn kim tướng Phật mà cảm hóa, và chẳng cần đợi phủ dụ, khuyến cáo, răn dè mà vẫn tự răn dè vậy.” Và những người hành thiện, tránh ác mà làm phép tắc của luật nghi như mái che, đòn chống, hẳn không lưu lại gì nơi Niết Bàn cả.

Phật cố xoay mệnh lệnh bảo rằng:

- “Tỳ Kheo các con vào lúc sau khi Ta diệt độ, các con phải tôn trọng Ba La Đề Mộc Xoa (giới luật) là Thầy của các con; vương pháp ấy giáo hóa cả đại thiên mà chở che cho mai hậu.” Bậc trí chẳng vượt qua đó! Lý - Sự không hai là lời dạy bất nhị rất sáng tỏ vậy.

Vào thời kỳ chánh pháp[11] giáo pháp mới bắt đầu khởi sắc; lúc đó Phật pháp hưng thạnh, mọi lễ nghi phép tắc đều còn hòa hưỡn.

Từ Ngài Đạt Ma trở về sau mới truyền riêng tâm yếu, người thực chứng nhiều, nhưng trong số chẳng phải không có kẻ phù hư, đến phải rơi vào số không! Như lấy dung nghi tướng bề ngoài đo đạc là không đủ làm thước đo phẩm hạnh, là không đúng trình độ; không rõ phép quyền đến thật, thật ở đâu? Không cần Quyền đúng là bậc đại trí đáng làm mẫu mực; Dụng để tán thán luật tắc; Kỹ cương giềng mối ở Lan nhã vắng lặng, là long tượng dũng mãnh, không tin sao? Lý không ngoài sự mà việc Phật nơi Không môn (cửa Thiền) không bỏ một pháp. Nên lấy quyền - thật tướng làm Thể vậy.

1.8.3 Trì luật giữ nội hộ làm Tông

Cho dù Tiểu Thừa hay Đại Thừa đều phải hành trì giới luật. Một lời xấu ác đã phát ra, ngưng làm tức gìn giữ, đây cũng chính là Thanh Quy vậy. Chốn Thiền môn có điều luật cấm lỗi, ngăn quấy v.v... là để giữ luật, dứt ác. Mỗi mỗi nghi tiết như tham thiền, niệm Phật v.v... là giữ luật hành trì. Cả hai điều dứt và làm đây phù hợp với giới luật.

Ngoài ra, lấy đức cảm hóa người làm cho họ phát tâm tin Phật pháp. Trong lo việc duy trì chánh pháp, luôn đem pháp truyền bá sâu rộng, làm cho bánh xe pháp lưu chuyển mãi không ngừng, như vậy để lợi mình và lợi người: Đây gọi là giữ luật bên trong làm Tông vậy. Nếu người không giữ giới luật, không theo đúng Thanh Quy chính là ác ma tự phá diệt Phật pháp

Kinh Phạm Võng ghi: “Phật pháp chẳng phải ngoại đạo, thiên ma phá được, như sư tử chỉ có vi trùng bên trong mới ăn thịt nó; giáo pháp của Phật cũng thế, chỉ đệ tử Phật mới tiêu diệt được mà thôi.”

Kinh Lăng Nghiêm ghi rằng: “Thế nào là kẻ tặc? Kẻ mượn chiếc áo ta, bán đứng Như Lai, tạo đủ ác nghiệp lại cho là Phật Pháp, hủy báng người xuất gia thọ giới tỳ kheo, làm người truyền đạo, do đó làm cho vô số chúng sanh lầm phải đọa vào địa ngục Vô gián.” Do chỗ tệ hại đó, khi Phật sắp nhập Niết Bàn, luôn nhắc nhở chư Tỳ kheo giữ giới luật; lại quở trách người phá giới. Người giữ đúng luật là người thật sự giữ giới mà ở đây gọi là Thanh Quy, nghĩa thật là nghiêm túc, nên lấy việc trì giới luật bên trong làm tông vậy.

1.8.4 Y pháp luận sự làm dụng

Y pháp luận sự làm dụng có hai việc:

1- Việc thường xảy ra như ngày Tết, lễ Thanh Minh, cho chí lễ Phật Đản, ngày giỗ Tổ v.v.. có ấn định thời gian tổ chức.

2- Việc bất thường như lễ Khánh Chúc, cầu thọ, nhậm chức trú trì, lui về Phương Trượng v.v... Việc trước việc sau có tổ chức hay không, không nhất định.

Như vậy, việc tuy nhiều mà ở đây chỉ nêu có 2 cũng đủ, gọi sự để làm rõ lý, vì rõ lý mới dễ giáo hóa. Nhưng việc thường gặp trở ngại phải biết khéo léo quyền biến để sự giáo hóa mới chu toàn. Xưa nay chư tăng cần phải biết rõ nghĩa này không nên bỏ bê không làm sai nghi cách (quy tắc). Người co cụm do hoặc cố chấp không hiểu biết đến đổi cách ngăn khó thực hành, nhắc tới Thanh Quy là bịnh, không sai lầm sao! Phép tắc đạo dần dần suy rồi đưa tới chỗ tệ hại ấy. 

Trước hết phải đề xướng ý nghĩa luật cho thấm nhuần mà không ngại chỗ quê hèn, lấy đây làm sách tấn vậy. Vã nên y pháp luận sự mới thấy rõ việc đổi ma thành Phật, chuyển tà thành chánh, trừ gian manh đem an lạc tới mọi người, chỉnh đốn lễ nghi, trưởng dưỡng đạo đức, làm cho tòng lâm hưng thạnh. Giáo hóa chúng sanh không bỏ sót một ai, mới gọi là mạng mạch tăng bảo, nếu không giới luật, Thanh Quy thì không thể nào tồn tại được lâu dài, phải tin như thế.

1.8.5 Lấy Sữa Đặc - Dụng Làm Giáo Tướng

Ngài Thiên Thai trí giả trích dẫn Kinh Niết Bàn nói rằng: “từ bò mà có sữa cho đến bơ” 5 vị để luận một đời giáo hóa của Như Lai chia làm 5 thời: 

1- “Thời thuyết Kinh Hoa Nghiêm dụ như sữa,
2- Thời nói Kinh A Hàm dụ như sữa đặc,
3- Thời nói Kinh Phương Đẳng dụ váng sữa sống,
4- Thời nói Kinh Bát Nhã dụ như váng sữa chín,
5- Thời nói Kinh Pháp Hoa, Niết Bàn dụ như bơ.”

Thanh Quy này cũng mượn dùng ví dụ của Kinh trên. Phân định sữa – bơ đều là Dụng của 5 thời Phật thuyết giáo. Kinh Phạm VõngKinh Hoa Nghiêm nói đồng thời, chỗ thô chỗ diệu dung hợp, mảy may tinh tế không chi chẳng phải nhứt chân pháp giới; có nghĩa là lời lẽ răn đời, tư cách, nghề nghiệp v.v.. đều hợp với chánh pháp. Nay với Thanh Quy này, nghĩa tuân thủ Kinh Phạm Võng để cho kẻ thượng căn hành trì; lý-sự vô ngại, nơi nào cũng viên mãn đặc trưng như vị sữa. Đến như Kinh A Hàm tuy chuyên về pháp sanh diệt Tứ Đế[12], nhưng quy định của Tiểu Thừa là ngộ vô sanh, vô tác; còn lý của Đại Thừa khởi từ bơ cũng phát xuất do váng mà váng sữa do sữa đặc mà có. Thanh Quy đây so với Kinh A Hàm tức nằm trong phạm vi Tiểu Thừa, khiến cho nó cũng đóng vai trò dây mực, có nền móng chớ để hư hỏng, như người có 2 tay, hai chân không thiếu lại mặc áo quần đẹp càng xinh; như bức họa khéo pha chế màu không kém làm cho màu sắc trở nên nổi bật, mới có thể so sánh sữa đặc. Cho nên lấy sữa đặc dùng làm giáo tướng

Trước đây Ngài Tông Hy nói rằng, các lệ chốn thiền môn, dù không phân thành 2 hình thức giới luật và con nhà mô phạm, nhưng phải có một mẫu mực qui định. Như vậy, trong việc thọ dụng người tu tự nhiêntư cách thanh cao khác thường; còn kẻ gặp việc xây mặt vào vách, là làm mất cái thể con người vậy. Vì thế, người xuất gia phải trải qua các tòng lâm, đến tham học phương xa. 

Người đầy đủ kiến văn hiểu biết hẳn làm tai mắt (lãnh đạo) tức chuẩn mực để nhờ đó trang nghiêm chùa viện, thiết lập đạo tràng hoằng pháp, tức làm Phật sựthiền môn; thiếu một không được, như Bồ Tát đủ ba tụ giới[13] Thanh Văn bảy thiên luật[14]. Đâu còn niềm vui nào hơn của đạo pháp nữa. Đúng là tùy căn cơlập giáo, kẻ hậu học sơ cơ[15] phải thật khéo léo tham vấn bậc trưởng thượng thương xót chỉ dẫn.

Trở lên bên trên 5 việc chứng nghĩa đã thuật xong. Mời chư quý độc giả theo thứ tự xem qua quyển 1 đến quyển 9 của toàn bộ sách này để nắm vững điểm cốt yếu cho việc hành trì khỏi sai sót, khuyết phạm. Mong mỏi lắm thay.

Dịch giả cẩn khải,

Sa môn Thích Bảo Lạc

[1] Người làm mẫu mực, làm gương tốt cho người khác theo.

[2] Chùa tháp thờ Phật gọi là tòa phù đồ. Như câu: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người (Quan Âm Thị Kính).

[3] Trước kia chưa có đèn điện, chùa phải dùng đèn dầu.
[4] Toàn ý nói rằng: Thiền Tông truyền tới lục Tổ tại Tào Khê là dứt, không truyền y bát nữa.

[5] Đầu non Bách Trượng: Tổ Bách Trượng lập đạo tràng hoằng hóa trên núi Qui Sơn nhiếp hóa cả hàng ngàn người tới tu học.

[6] Nhà ông Duy Ma Cật: căn nhà tịnh thát tuy nhỏ bé nhưng dung chứa mấy cũng không chật.

[7] Tiếng pháp âm hay còn gọi là hải triều âm tượng trưng giáo pháp Phật lan xa rộng mãi.

[8] Tăng phườngtòng lâm. Tri sự nhơn là người chấp sự, tức là vị trông coi chúng Tăng trong chùa. Nên theo thứ tự mời thỉnh tức là theo đúng Thanh Quy

[9] Không dám tự mình cầm y quí giá mà nên nhờ vị chấp sự nhận thay; đợi hợp thời thanh tịnh mới nhận. Đó là giữ đúng Thanh Quy.

[10] Tiếng Phạn Thi La, Trung Hoa dịch là giới; quy tắc tức là Thanh Quy vậy.

[11] Thời kỳ giáo pháp hưng thạnh. Từ đức Phật nhập diệt đến 500 năm sau, có nhiều bậc Thánh tăng xuất hiện, và nhiều vị tu chứng. Sau thời kỳ này là thời tượng pháp từ 500 đến 1500 năm sau khi Phật Niết Bàn, và nay là thời mạt pháp.

[12] Bốn chân lý căn bản thiết đặt nền móng Phật đạo là khổ, tập, diệt, đạo. Đó cũng là bài pháp đầu tiên đức Phật Thích Ca giảng tại vườn Lộc Uyển cho ông Kiều Trần Như và 4 pháp hữu cùng tu với Ngài lúc chưa thành đạo. Sau khi đạt thành chánh giác ngày mồng 8 tháng 12 năm 573 tây lịch, Đức Phật liền nghĩ ngay tới 5 người bạn đồng khổ hạnh với Ngài trong rừng già lúc trước, nên đến nói pháp cho họ nghe. Cả 5 người này đều đạt ngộ đạo mầu chứng thánh quả A La Hán.

[13] Ba nhóm giới hội tụ là nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giớinhiêu ích hữu tình giới hay nói cách ngắn gọn là đoạn ác, tu thiện và độ hết thảy chúng sanh.

[14] Thất thiên: 250 giới Tỳ kheo chia ra thàng bảy thiên đó là: 4 tội cựa ác, 13 tội hữu dư, 2 pháp bất định, 30 pháp xả đọa, 90 tội đọa, 4 tội hướng bỉ hối, 100 pháp chúng học và 7 pháp dứt sự tranh cải.

[15] Là kẻ lớp sau, lớp đàn em mới nhập môn vào đường đạo.

Tu Viện Quảng Đức

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12398)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13929)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10711)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10391)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11054)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11844)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13023)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13500)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33478)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11232)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12772)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12927)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11507)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17743)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11294)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11705)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11389)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18832)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12442)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11192)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13046)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15591)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11709)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11588)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12575)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12513)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13808)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12858)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12800)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13169)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12614)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12583)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11644)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11637)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12198)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12221)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19646)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11857)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11878)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16698)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12548)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14905)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15959)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12742)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12109)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11761)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11801)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13023)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16393)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13112)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12363)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11703)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19703)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11042)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11151)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10293)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 10997)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10863)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9936)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11637)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant