Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

23. Cúng La Hán

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12980)
23. Cúng La Hán

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 5

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương 5: Trụ Trì

1.23 Cúng La Hán

Tiếp đãi trai chủ giống như cúng trai phạn tăng, dự định ngày viết thông báo dán tại thiền đường phòng khách. Thông báo rằng, “ngày mai sau khi điểm tâm sáng, đại chúng chuẩn bị cúng La Hán, ban hương đăng coi sóc trên chánh điện, 10 thầy cúng ngọ liệt danh sách như sau: Đại Đức A, B, C,… Chuẩn bị nhang đèn, chân đèn, lư hương, chén bát, đũa muổng, tách trà, cơm nước, bánh trái… lo cho hơn 500 người dự. Người phụ trách trai soạn sắp xếp các Ban nấu nướng, để cung cấp 500 phần ăn. Ngày hôm sau 5 vị phụ trách hương đăng tới nhà kho lấy nước, lấy chén, đèn nhỏ 500 cây, chân đèn 250 đôi, lư hương. Mỗi người coi sóc 100 vị La Hán, trước mỗi vị đặt một tách trà, một đôi đũa, một dĩa quả, một cây đèn. Lư hương 2 vị chung một lư. Nước trà, cơm, bông trái, đèn đặt cúng quanh tượng, rồi mới lên nhang đèn; kế pha trà, hiến thức ăn. Lại mặt tiền chính giữa thiền đường, đặt một bàn vuông lớn, 2 chiếc bàn nhỏ có thể để 16 vị La Hán. Chưng bông trái, nhang đèn, thức ăn đầy đủ. Mỗi vị có một bài vị, một tách trà, một đôi đũa, một chén cơm. Ở phía mặt tiền để chừa ra 3 mét, đặt 3 chiếc bàn dài trên để bì sớ 13 vị nhìn trên dưới, chính giữa; cũng đặt hương đèn và cúng 10 bộ La Hán, mỗi bộ dùng kinh che kín, 10 cái thủ lư đều chuẩn bị sẵn. Tới giờ cúng, vị Tri khách mời 10 Thầy cúng ngọ đắp y hậu tới chỗ thờ A La Hán, kế mời trai chủ niệm hương. Các Thầy đảnh lễ Tam Bảo. Trai chủ lần lượt đến bàn giữa niệm hương, rồi các bàn khác cũng vậy. Duy Na cử tán:

Lư hương vừa ngún, cõi pháp được xông

Khói trầm ngào ngạt một lòng kính dâng

Khắp hòa vũ trụ xa gần

Hoa sen rực rỡ đơm bông cúng dường

Chư Phật, Bồ Tát giáng phàm

Hiện hình La Hán trên vòm Thiên Thai

Vào đời thọ cúng hôm mai…

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.

Duy Na xướng: tất cả cung kính, Chúng cầm hương xướng hoà: “Chí tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo”.

Duy Na nhập khánh đọc:

Lại nguyện, người chia thành phương tiện từ Gia Hạnh đến vị Đình Tâm, vị như 4 sa môn, do vô học cầu nơi kiến đạo, đó đều biết khổ, đoạn tập, thọ đạo tạo nhân là gốc quyền của tích pháp, hội ngộ lý KHÔNG của con người. Đến như chứng bực Biện địa, vào Đại Thừa môn, chỗ học họ đồng Bát Nhã. Vì thế cùng với Bồ Tát trong giữ kỹ hạnh mật, ngoài nghe âm thanh Phật đạo, đều được gọi là thánh hiền tăng, nên đáng thọ của nhân thiên cúng.

Chỉ mong sao kham thọ Phật phó chúc, ở phương này đủ duyên làm hưng long giáo pháp, đáng cho phàm tình nhận đàn na cúng dường hôm nay. Tuệ chiếu hồi tinh mật, bao bọc bởi lòng thương, cứu khắp chốn mê tình đưa lên miền Cực Lạc.

Đại chúng đọc hòa theo: “Cho nên con nhất tâm kiền thành phụng thỉnh”. Tất cả đồng lạy 1 lạy.

Nhất tâm phụng thỉnh tận hư không biến pháp giới thập phương thường trú chư Phật, Pháp, Tăng

Nhất tâm phụng thỉnh Ta Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật

Nhất tâm phụng thỉnh tận hư không biến pháp giới thập phương thường trụ chư Thanh Văn Tăng cùng chư quyến thuộc

Từ đây trở xuống 9 lạy mỗi lạy đều xướng “Nhất tâm phụng thỉnh” và phần cuối thêm “cùng chư quyến thuộc”

…Thường tùy tùng theo Phật, 1250 đại A La Hán, Lộc Uyển trước độ 5 vị tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các vị A La Hán… Đại đệ tử Thế Tôn Ca Diếp, A Nan Đà cùng 10 đại đệ tử… nghe pháp tại Linh Sơn chúng đại tỳ kheo một vạn 2 nghìn đại A La Hán… tại hội Linh Sơn được thọ ký học, vô học chư đại Thanh Văn chúng… Năm thời nghe pháp học, vô học các vị chúng đại Thanh Văn… sau khi Thế Tôn tịch diệt kết tập 3 tạng A Nan Đà và chư vị A La Hán… Hiện thế 16 vị đại A La Hán, 16,900 chúng đệ tử cùng các quyến thuộc. Trú xã… huyện… tỉnh… tên chùa… hiện tại 500 vị A La Hán cùng các quyến thuộc.

Lại nguyện: không trái bổn thệ, thương xót hữu tình, giờ này hôm nay quang lâm đạo tràng, chứng minh công đức.

Thỉnh xong, xá một xá. Trong lúc thỉnh, Duy Na nghĩ tất cả A La Hán đều dùng thiên nhãn soi sáng, thiên nhỉ thấy nghe, tha tâm biết được, oai nghi nghiêm túc từ hư không mà đến đây.

Ngoài ra, bốn mặt thêm huệ đầy đủ thông giáo hai vị, như trên biệt xuất 10 vị nhưng không cần thêm nữa. Thỉnh xong xướng kệ tán thán:

Lần đầu độ 5 người thành Tăng Bảo

Cao đệ đức Thế Tôn đạo ẩm quang

Linh Sơn một hội thật huy hoàng

Chúng vô học một vạn 2 nghìn 

Tu Bạt Đà La độ sau cùng

Năm thời nghe pháp số chúng đông

Hàng Thanh Văn Niết Bàn chứng thông

Ba tạng lưu truyền nhờ công kết tập

16 vị chân nhân được phó chúc

Đời vị lai làm bực phước điền

thường trụ thánh hiền tăng 10 phương

Đều được tôn phụng cúng dường nơi đây.

Tán xong, Duyệt chúng gõ mõ nhỏ đại chúng cùng đọc: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chư tăng, thí chủ đều hướng về Phật điện từ từ bước tới tiến về phía bàn thờ La Hán đi kinh hành một vòng. Xong, đứng tại chỗ ngưng niệm Phật. Đại chúng quỳ và cùng đọc:

Nam Mô thường trụ Phật, Pháp, Tăng, 

Nam Mô bồn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam Mô khắp hư không biến pháp giới, 10 phương thường trú chư Thanh Văn tăng.

Nam Mô thường tùy theo Phật 1250 vị đại A La Hán

Kính lễ Lộc Uyển trước Phật độ 5 tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các bậc A La Hán.

Kính lễ hàng cao đệ đức Thế Tôn Đại Ca Diếp, A Nan v.v.. đại A La Hán

Kính lễ chúng đại tỳ kheo nghe pháp tại hội Linh Sơn một vạn 2 nghìn đại A La Hán

Kính lễ các đại Thanh Văn được thọ ký học, vô học tại hội Linh Sơn

Kính lễ chúng đại Thanh Văn đạt học, vô học nghe 5 thời thuyết giáo

Kính lễ A Nan tôn giả, chư vị A La Hán kết tập 3 tạng sau Phật diệt độ

Kính lễ lịch đại Tổ sư, chư vị A La Hán trong thời chánh pháp, tượng pháp sau Phật diệt độ

Kính lễ 16 vị đại A La Hán cùng 16,900 đệ tử A La Hán

Kính lễ hiện trụ 500 vị đại A La Hán đang thờ tại bổn tự.

Lạy xong, tiếp theo đọc chú: biến thực 21 lần, cam lồ 7 lần, phổ cúng dường 7 lần, rồi tiếp:

Nam Mô thập phương thường trú Tam Bảo (3 lần).

Duy Na quỳ đọc sớ như sau:

Lại nghe rằng: Tại rừng chiên đàn mùi thơm phảng phất, nơi hang sư tử đều nghe tiếng gầm vang dội. Dám mong thành khẩn ngưỡng đức từ bi.

Nay tại Úc Đại Lợi, Sydney thành phố, chùa… phụng Phật thiết lễ cúng dường La Hán, mong ân gia hộ đệ tử… pháp danh… tuổi, đầu thành đảnh lễ nhất tâm thượng kính; trung thiên chí thánh Mâu Ni Thế Tôn thường tùy Thánh chúng các vị đại A La Hán trên đài Kim Liên chứng giám cho lòng thành tỏ bày của chúng con.

Lại nghĩ: trí siêu vô lậu, đạo hợp chân không, thần thông thông tỏ trong thoáng chốc ở thiên thượng nhân gian. Bí hiện u thâm, quên hết nổi ưu lo Thanh Văn, Đại thừa; phấn khởi gặp được thắng duyên thấy thánh tướng nơi điện tiền, dâng khiết hương bày tỏ, nghinh phan báu mà cúng phó, mong dũ soi huệ nhãn, doãn nạp tấc lòng thành. Do vậy, nhân nay ngày… tháng… năm… đệ tử cung kính đến chùa… thực tỏ lòng thanh tịnh, nương nhờ đức chúng trai giới nghiêm minh thật tu thiền tịnh. Trên cúng Phật, Pháp, Tăng thường trụ Tam Bảo tại bảo điện bổn tự cúng 500 La Hán hóa thân đại sĩ, các bậc tôn giả Thánh hiền, với chút hương hoa này cúng dường cùng khắp tất cả.

Lại nguyện: pháp môn nổi bật đèn Tổ thêm rạng soi; đàn na tịnh lạc, hải chúng an hòa, mong thương phàm tình toàn nương nhờ từ lực.

Chí thành dâng sớ, cung kính thỉnh Tam Bảo chứng minh, cúng dường La Hán.

Ngày… tháng… năm… Đọc sớ xong, tán rằng: 

Phước đức cúng dường

hạnh cả mênh mông

trong mật ngoài hiển 

mãi mãi lưu phương. 

Thay Phật rộng tuyên dương

thọ lịnh khó quên; 

vào đời làm chiếc thuyền nang.

Nam Mô chư đại A La Hán tôn giả.

Đại chúng về chỗ của mình. Tri Khách mời trai chủ đến phòng khách dùng trà. Chúng hương đăng thu dọn ngay đồ cúng đem xuống nhà trù để sửa soạn cúng dường đại chúng. Những đồ vật khác cất vô kho chờ dịp cúng khác. Hiến cúng đại chúng, ngoài nghi cúng xem thêm nghi thức cúng trai phạn như trên. Sau khi điểm tâm sáng, 10 Thầy đã được phân phiên lên chánh điện cúng ngọ; tới bàn thờ La Hán lễ A La Hán. Lễ lạy La Hán chia nhiều thời, mỗi thời 100 lạy từ số 1 tới số 12 như trên. Xem phần trước có đầy đủ, kế lạy 16 vị La Hán hiện thế.

Chí thành đảnh lễ Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xà tôn giả.

Sau đây mỗi vị đều đọc “Chí thành đảnh lễ”:

Ca Nặc Ca Phạ tha tôn giả

Ca Nặc Ca Bạt triền đọa xà tôn giả

- Tô Tần Tha tôn giả

Nặc Cự La tôn giả

Bạt Đà La tôn giả

Ca Lý Ca tôn giả

Phạt Xà La Phất Đa La tôn giả

- Mậu Bác Ca tôn giả

Bán Thác Ca tôn giả

- La Hổ La tôn giả

Na Già Bỉnh Na tôn giả

- Nhân Kiệt Đà tôn giả

Phạt Na Bà Tư tôn giả

A Thị Đa tôn giả

- Chú Trà Bán thác ca tôn giả.

1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49655)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34579)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33415)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43855)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47482)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39374)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38420)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52865)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36555)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32192)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40387)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31412)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46660)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36122)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28654)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29179)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31833)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28755)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33301)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29070)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60936)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39677)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26606)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29617)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37290)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40025)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26805)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42588)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37207)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28247)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28852)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26350)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27119)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26153)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34536)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27761)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30431)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33195)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28511)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30023)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25452)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21805)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51217)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26646)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28569)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27659)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24305)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27413)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31867)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30130)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27652)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35372)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27393)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29962)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31692)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22973)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24130)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22973)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant