Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Qui tắc lễ hội Vu Lan gồm có 18 điều

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11961)
7. Qui tắc lễ hội Vu Lan gồm có 18 điều

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 8
Tuổi đạo

Chương tám: Tuổi đạo

1.7 Qui tắc lễ hội Vu Lan gồm có 18 điều:

Ta từng nghe giai tiết lễ Vu Lan là dịp đại bố thí rộng khắp, trông mong vào lực lượng đại đàn tràng, thiết cúng vô giá cam lồ pháp vị. Pháp hỷ biến khắp mà thiền duyệt Phật, Tăng gội nhuần cả Thánh phàm. Thực hiện hai việc bố thí vật thực (thức ăn) và pháp thí đời sau được đầy đủ hai môn phước và huệ. Những qui ước chuẩn mực được nêu theo thứ tự sau:

1. Mỗi năm đến Rằm tháng bảy người biết chữ đến liêu Tạng chủ nhận lãnh chú thích, in ấn Kinh Vu Lan. Tạng chủ hỏi danh tánh cho ghi vào sổ. Đến ngày mồng 6 hoặc bắt đầu tu Phật thất, nếu không tổ chức chỉ chú trọng mỗi ngày giảng Kinh Vu Lan một thời cũng được. Dán thông báo tại phòng khách, cổng chùa, giảng đường nêu rõ thời giảng kinh và tên giảng sư vào ngày giờ nào… cho đăng báo, đọc tin trên đài, thí chủ cúng tiền, trai phạn, cúng dường trai tăng, truy tiến hương linh…hết thảy đều nên cho đại chúng biết rõ để tâm mọi người độ lượng (mở rộng) mới hợp lời Phật dạy.

2. Hội cúng này không luận tăng, tục ai cũng tham dự được trong việc niệm Phật nghe kinh, chỉ không cho các ni cô nhỏ tuổi vào đàn, vì sợ mất uy danh đạo tràng.

3. Qui định cũ dùng trước chánh điện thiết lập đàn tràng cúng lễ, phía trên có che tấm bạc (lều) dưới lấy gỗ làm cọc cho chắc chắn để tránh gió mưa. Tùy số người tham dự và đồ cúng nếu đông; còn như ít có thể thiết trí trong chánh điện cũng được.

4. Lời bạch đều do Duy NaTrụ Trì lo chuẩn bị trước đọc nhuần nhuyễn. Đến ngày cúng, bận rộn, thiếu thực tập, khó mà đọc trôi chảy, cho nên đứng nơi lễ đàn chỗ bục cầm giấy đọc rõ ràng khúc chiết. Chỉ Kinh Vu Lan hầu như mọi người đều nên thuộc.

5. Mâm bát cũ có thể dùng được nên dùng. Nếu không chuẩn bị kịp một mâm lớn lấy gỗ làm cũng được, hình thức như tháp hương dưới rộng như chậu, giữa phân làm 4 từng, mỗi từng đặt thức ăn 6 vị, chồng 4 lớp thành 24 vị, đồ ăn đều nấu chín. Mâm lớn rộng 3m bên dưới có giá: lại lấy một bát lớn chứa gạo đổ vào trong để cúng.

6. Phàm cúng lễ chỉ cốt do tâm thành kính, không cần phải ngụy trang dồi dào; cũng không nên tiếc tiền củagiản tiện quá mức. Tùy người nghèo giàu dụng tâm thành mà sắm sửa.

7. Dâng cúng đồ dựa theo kinh Vu Lan nên chọn đủ 5 loại trái cây, thức ăn 100 vị: quả khô 10, canh nóng 10, quả nước 10, dưa đậu 10, bánh bột 10, bánh ngọt 10 loại, dầu ăn 10, đồ xào khô 10, đậu 10 loại, tương 10 thứ.

(Việc sắm sửa trên không tuyệt đối, tùy địa phương mà châm chế cũng được).

Ngoài ra, cúng cơm, nước trà và nói chung là thức ăn chay đều cúng được. Cúng xong dọn đãi cho Phật tử. Cúng dường trai tăng dọn mâm riêng. Đã là việc Phật tùy nghi theo từng trường hợp, nếu người của nhiều thời sắm đủ trăm vị, cúng 1000 vị tăng, tụng kinh, sám pháp đều làm cho thêm phần lợi ích. Như người nghèo ít của chỉ cần 3 loại quả, 6 vị thức ăn, thậm chí cúng 10 vị tăng cũng đủ, gọi là phú la thiên hạ kỳ trân (những vật trân quí bày trong thiên hạ). Nghèo mà tận lực, cốt ở chỗ tấm lòng thành mà thôi.

8. Hội cúng Vu Lan giống như cúng Thủy Lục, đàn nội cúng Phật, đàn ngoài nên tụng kinh Hoa Ngiêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, quyển 24, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa 12 bộ, Kinh Địa Tạng 12 bộ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật 12 bộ, Kinh Kim Cang 24 bộ, Kinh Dược Sư 24 bộ, Kinh Kim Quang Minh 12 bộ, Kinh A Di Đà 108 lần, Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni 24 bộ, Kinh Vu Lan Bồn 7 ngày cũng được.

9. Hội Vu Lan tuy cúng tiến cha mẹ tôn thân, nhưng gồm độ luôn 6 cõi phàm hay 6 đạo luân hồi chuyên chú tâm tới các quyến thuộc. Phàm phu không biết, Phật dạy phóng sanh để trợ lực công đức, nên khuyên rộng mọi người tới ngày hoàn mãn mua chim cá để thả, cần thiết không thể bỏ qua.

10. Nếu có lễ sám ngày 13 tháng 7 bắt đầu lạy, tắm rửa sạch sẽ thanh tịnh. Xem thêm qui tắc tụng niệmnói trước, sau khi kiết đàn nên giữ gìn trang nghiêm, đừng để người, súc vật, cũng như không có vật bất tịnh rơi vào. Giả sử có rơi vào, y theo pháp qui tội rất nặng.

11. Đàn sám tăng chúng không được lộn xộn, như đàn Tỳ kheo chỉ nên toàn Tỳ kheo, nếu Ni chúng kết đàn phải dùng đàn riêng cho ni chúng. Nam chúng tại gia theo chúng Tỳ kheo, nữ theo Tỳ kheo ni, không xen tạp. Nếu Ni không thể làm chủ đàn nên mời một vài vị tôn túc trưởng lão cao đức giúp hộ. Bên ngoài đàn, Chủ sám dạy không được lập đàn cúng hương đèn, không được lộn xộn cũng thế. Tấn đàn niệm hương lễ bái, cũng vào đàn nội niệm hương lễ bái như vậy.

12. Trong lúc lạy sám cần đi vệ sinh, vào restroom không được mang y sạch vào. Trước tiên phải cởi y sạch, giày sạch để chỗ sạch rồi mới mặc áo, mang giày vào nhà cầu. Việc xong tẩy tịnh, rửa tay sạch sẽ, cởi áo giày ra rồi mặc y sạch, giày sạch lại phòng rửa mặt, lau mặt, súc miệng rồi nhập đàn

13. Lúc lạy sám không được tiếp xúc người ngoài, không được nói chuyện riêng với họ, cũng không được xem các sách kinh khác. 

14. Cúng ngọ dùng thức ăn đã nấu chín, cúng xong liền thâu dọn để trên bàn đậy lại; cúng Phật chỉ dùng hương hoa, nước trong là đủ.

15. Cúng trai Vu Lan, Phật dạy ở vào dịp lễ giải hạ, có nghĩa là chư Tăng an cư 9 tuần, tu tập tinh chuyên, giới đức thanh tịnh, có thể cứu độ ngạ quỉ (quỉ đói). Phàm vị thầy sám đều phải giữ thanh tịnh không ăn sau giờ ngọ, cũng giống tu Bát Quan Trai. Không được kéo dài giờ giấc làm hỏng giờ thọ trai (đúng ngọ).

16. Lễ sám tới canh năm thức dậy rửa mặt, dùng trà xong nhập đàn là thời thứ nhất, mặt trời lên dùng điểm tâm xong nghe hiệu lệnh vào đàn là thời thứ hai, lễ lạy chừng hết một cây hương nghỉ giải lao, sau khi giải lao độ 15 phút trở vào đàn là thời thứ ba lễ tới 11 giờ. Dùng ngọ trai xong đi kinh hành, giải lao, chỉ tịnh. Lúc 14 giờ nhập đàn là thời thứ tư, lễ độ 1 giờ và nghỉ giải lao; từ 4 giờ15 nhập đàn là thời thứ năm tới 5,30 giờ nghỉ. Buổi tối lúc 8,30 giờ nhập đàn là thời thứ sáu lễ sám. Sau khi ra đàn là giờ chỉ tịnh nghỉ ngơi.

17. Sau khi ra đàn tọa hương đều phải chuyên tu thiền quán không được phóng túng hoặc hôn trầm. Giả sử không ngồi tọa hương được, có thể niệm thầm kinh chú hoặc niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát cũng được, không nên bàn nói lớn tiếng làm động người khác hoặc cười nói, v.v…

18. Mỗi khi nghe chuông hiệu lệnh liền đi tiểu giải, rửa mặt. Nghe một hồi 3 tiếng chuông dài liền theo thứ tự mà đứng, đừng đứng trước sau không hàng lối.

19. Trong quá đường thiết một bàn dùng hương đèn, trên bàn hiến cúng Vu Lan Bồn, khải giáo Đại sĩ, đại hiếu Đại Mục Kiền Liên tôn giả liên tọa. Trên đó chỉ cần người hầu hương đèn. Giả sử có việc cần cấp ngưng lại có thể theo việc mà nói thẳng không được không nói nguyên do. Nói lời khiên cưỡng khác, thảng hoặc có kẻ uống rượu say tới dạo chơi, Tri khách nên nói khéo làm cho đương sự đứng xa nhìn, không được gây rối.

20. Lễ sám đến ngày Rằm, đại chúng tắm rửa, thay quần áo sẵn sàng nghi cúng ngọ, xong thọ trai. Xem Quy tắc nghi ở trước có nói rõ. Nếu khônglễ sám Vu Lan, có thể sám pháp Đại Bi hoặc sám Tịnh Độ thay cũng được.

Ngày…tháng…năm…

Trụ trì… ký tên.

-Chứng nghĩa ghi rằng, chú giải kinh Vu Lan, trong tạng Kinh chỉ thấy đời Đường Ngài Khuê Phong Tông Mật pháp sư chú sớ 1 quyển. Sau đời Tống dựa theo sách ấy cho ra đời sách Hiếu Xung sao 2 quyển. Cuối đời Minh Ngẫu Ích đại sư của Tông Thiên Thai viết Tân sớ 1 quyển, Luật tôngpháp sư Ngọc Luật viết Hiệp Thích 1 quyển. Bản còn lưu hành ở phòng Kinh sách Chiêu Khánh, song Qui Tắc nghi cúng lâu không thấy lưu hành. Người đời lầm cho rằng thí quỉ thần là cúng chay lễ Vu Lan, đây là sự lầm lẫn. Sách Vân Thê Chánh Ngoa tập ghi rằng, Vu Lan Bồn duyên khởi do Ngài Mục Kiền Liên, cho rằng ngày Rằm tháng bảy chư tăng giải hạ làm lễ Tự tứ (chỉ lỗi và nhận lỗi) sau 3 tháng tu học đạt được nhiều đạo quả. Ngày này nên cúng dường được phước đức tăng gấp trăm, chứ không phải cúng thí cho cô hồn (quỉ thần) ăn. Cúng thí thực duyên khởi do Ngài A Nan không hạn ngày rằm tháng bảy, sắm sửa đồ vật tại Ma Kiệt Đà cũng không phải hội Vu Lan. Bởi vì theo một nguyên tắc, trên cúng Thánh Hiền, một mặt khác dưới giúp loài quỉ đói do thương kính là nguyên nhân khác nhau, chớ có lẫn lộn. Ngày nay Thanh Quy có cúng thí thực Trung Nguyên nhằm ngày cúng lễ Vu Lan, dâng cúng Tam Bảo, ban đêm thí hộc thức ăn, giúp đều cho quỉ thần, đây là một việc lưỡng lợi nên làm.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49623)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34569)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33389)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43839)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56933)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47452)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39342)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38409)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52856)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36533)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32179)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40368)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43395)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31399)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46632)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36104)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28637)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29165)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31817)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28736)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33268)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29061)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60899)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39652)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26592)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29584)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37272)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40008)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26784)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42572)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37193)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28231)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28834)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26342)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27101)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26144)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34508)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27738)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30412)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33154)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28481)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30004)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25442)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21792)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51176)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26629)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28549)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27649)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24281)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27376)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31826)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30105)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27630)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35356)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27374)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29947)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31659)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22967)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24105)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22944)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant