Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

29. Phóng Sanh

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12942)
29. Phóng Sanh

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 5

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương 5: Trụ Trì

1.29 Phóng Sanh
Sanh mạng con gì bắt được cũng phải thả đi không nên giam nhốt, sợ bị hại đến mạng sống chúng. Nên đặt bàn ngoài trời để làm lễ phóng sanh, có nước tịnh, cành dương, thủ xích… Pháp sư, thí chủ làm lễ, đại chúng đem mắt từ nhìn chúng khác loại, nghĩ thương xót cho kiếp sống trầm luân trải qua nhiều lần đọa lạc. Lại nghĩ Tam Bảo có đại oai lực hay bạt sạch sanh tử. Quán tưởng như thế xong, pháp sư cầm thủ lư lên đọc:

Chí tâm phụng thỉnh trên hội quang minh Chư Phật, Bồ Tát, 10 phương từ phụ, Quán Thế Âm Bồ Tát quảng đại linh cảm, thiên long thần kỳ tại đạo tràng này gia trì cho nước tịnh thủy này đủ công đức dày rưới khô muôn loại, khiến thân tâm họ thanh tịnh, nhẫn nghe diệu pháp.

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)

Chúng hòa theo. Tiếp tụng chú Đại Bi (3 biến), pháp sư cầm thủ lư niệm hương:

Ngưỡng bạch 10 phương Tam Bảo, Thích Ca bổn sư, Từ phụ Di Đà, Bảo Thắng Như Lai, Quan Âm Bồ Tát, cha con trưởng giả Lưu Thủy, Thiên Thai, Vĩnh Minh, các bậc đại sĩ v.v..

Ngưỡng nguyện: đức từ bi chứng tri hộ niệm, nay có các chúng sanh bị người bắt nhốt sắp đưa vào cửa tử, may gặp được…(tên người phóng sanh) tu hạnh Bồ Tát phát tâm từ bi, gieo nhân trường thọ tạo việc phóng sanh, cứu thân mạng của những con… này thả chúng ung dung tự tại.

Tỳ kheo… bèn theo Kinh Đại Thừa Phương Đẳng truyền Tam Quy, niệm 10 hiệu Phật. Lại cũng vì các chúng sanh này mà nói pháp 12 nhân duyên chỉ vì các chúng sanh này tội chướng sâu dày thần thức hôn mê. Ngưỡng cầu Tam Bảo oai đức gia bị thương xót chở che. Pháp sư đập thủ xích một cái, rồi cất tiếng thuyết 3 quy y:

Hiện giờ các chúng sanh quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng

Nói xong 3 lần, đại chúng cùng hòa theo:

Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi; từ nay trở đi tôn Phật làm thầy, không quy y tà ma ngoại đạo, tôn Pháp là thầy không quy y kinh điển của ngoại đạo, tôn Tăng là thầy bèn không quy y bọn đảng xấu ác. Này các Phật tử, đã quy y Tam Bảo rồi, nay tôi vì các ngươi mà niệm: Nam Mô Bảo Thắng Như Lai, 10 hiệu công đức khiến các ngươi được nghe như những con cá (bơi) chim (bay) tự do liền được sanh lên cõi trời không khác.

Nam Mô quá khứ Bảo Thắng Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện Thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều Ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.

Pháp sư đập thủ xích một cái rồi nói:

Các Phật tử, nay tôi vì các ngươi mà nói 12 nhân duyên tướng sanh tướng diệt cho các ngươi hiểu pháp sanh diệt; ngộ bất sanh diệt đồng như chư Phật chứng ngộ Niết Bàn. Bởi vì do vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, buồn thương, khổ não v.v.. vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệtlão tử, buồn thương, khổ não diệt. Nói xong, pháp sư vỗ thủ xích một cái rồi nói:

Này chư Phật tử, nay tôi dựa Kinh Đại Thừa truyền cho các ngươi 3 quy y, 10 hiệu Phật, 12 nhân duyên đã xong. Nay vì các ngươi đối trước Tam Bảo, phát lồ sám hối tội khiên cầu xin sám hối. Mong cho nghiệp tội các ngươi hết thảy đều được tiêu trừ được sanh vào xứ lành, gần Phật nghe pháp. Các ngươi phải chí tâm theo tôi mà sám hối

Con xưa lỡ tạo các ác nghiệp

đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý mà sanh ra, 

hết thảy con nay xin sám hối

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Bưng chén nước chú nguyện rảy lên những con vật sắp được thả, rồi mở cửa lồng cho chim (thú) bay ra. Pháp sư trở lại đọc:

Ngưỡng mong từ ngày được thả hôm nay trở về sau, hoàn toàn các ngươi không gặp ác ma nhai nuốt, lưới sập bẩy giăng, mà thong dong tự tại mãi mãi lâu dài. Nương lực Tam Bảo, Bảo Thắng Như Lai, từ lực bổn nguyện mà sau khi chết được sanh cõi trời Đao Lợi, hoặc sanh làm người, giữ giới tu hành, không tạo ác trở lại nữa. Tin tưởng niệm Phật, tùy nguyện vãng sanh. Lại cầu nguyện thí chủ… hiện đời được như ý, qua đời khác báo ứng tùy tâm Bồ Đề hạnh nguyện, niệm niệm càng sáng cứu khổ chúng sanh được như tâm nguyện. Do nhân duyên đó được sanh cõi Cực Lạc thấy Phật A Di Đàchư Thánh chúng, chứng được vô sanh nhẫn. Phân thân vô số độ khắp hữu tình đều thành chánh giác; Nay đại chúng đồng thanh niệm Kinh Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng, thần chú vãng sanh Tịnh Độ.

Đọc xong, Duyệt chúng gõ mõ nhỏ, đại chúng đồng tụng:

Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng tùy thuận thiện căn thật kiên cố, xin hồi hướng chư Phật tử… đại Bồ Tát làm đại quốc vương, đối với pháp được tự tại, thực hành sâu rộng lời giáo huấn làm dứt trừ nghiệp sát. Trong cõi Diêm Phù Đề[6] thành ấp, xóm làng hết thảy kẻ sát sanh đều bị cấm ngăn. Chúng sanh không chân, 2 chân, 4 chân, nhiều chân, những loại sanh thân đều ban cho điều không sợ sệt; không dục xâm chiếm tâm, rộng tu các hạnh Bồ Tát, nhân từ lợi vật, không làm xâm tổn. Phát tâm trân quí để làm an ổn chúng sanh ở các cõi Phật. Lập chí sâu bền thường tu 3 môn tịnh giới và cũng làm cho chúng sanh an trụ như vậy. Các đại Bồ Tát khiến chúng sanh tu giữ 5 giới trừ dứt hẳn nghiệp sát. Đem thiện căn này hồi hướng cho hết thảy nghĩa là nguyện cho khắp mọi loài chúng sanh phát tâm Bồ Đề đầy đủ trí huệ, bảo vệ thọ mạng lâu dài không chấm dứt. Nguyện hết thảy chúng sanh trong vô lượng kiếp cùng với chư Phật cùng khuyên nhau tu học, làm tăng thêm thọ mạng. Nguyện khắp chúng sanh tu hành nghiêm túc xa lìa sanh tử, hết thảy hiểm nạn, không làm hại đến thân mạng kẻ khác. Nguyện tất cả chúng sanh được thành tựu mọi điều không bịnh, tổn hại thọ mạng tự tại đều được tùy tâm... Nguyện hết thảy chúng sanh được thọ mạng không cùng tận tới kiếp vị lai, nương hạnh Bồ Tát điều phục giáo hóa chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh vì việc thọ mạng, đầy đủ thiện căn trong 10 lực tăng trưởng. Nguyện cho chúng sanh căn lành đầy đủ được thọ mạng vô tận thành tựu đại nguyện. Nguyện hết thảy chúng sanh được thấy chư Phật vâng phụng cúng dường tu tập thiện căn thọ mạng vô lượng. Nguyện cho khắp hết chúng sanhcõi Phật khéo học những pháp cần học, đạt được pháp an lạc thọ mạng vô cùng. Nguyện tất cả chúng sanh được không bịnh, không già, thường trong mạng căn tinh tấn dũng mãnh, nhập Phật trí tuệ. Đó là Bồ Tát ma ha tát trong 3 tụ tịnh giới dứt hẳn nghiệp sát hồi hướng thiện căn để làm cho chúng sanh đạt được 10 lực của Phật, trí tuệ viên mãn.

Tiếp tụng chú Vãng Sanh (3 lần) và Duy Na đọc:

Trở lên công đức phóng sanh để đền đáp 4 ân, 3 cõi đều nhờ. Pháp giới chúng sanh đều trọn thành chủng trí. 10 phương 3 đời chư Phật, hết thảy chư đại Bồ Tát, đạt đại bát nhã ba la mật

Tụng hồi hướng, 3 tự quy y. Bên trên là lược nghi thức phóng sanh xong. Nếu lễ phóng sanh mà có thêm tụng kinh hoặc cúng dường trai phạn v.v.. đều xem nghi thức trước, chỉ có phần hồi hướng và sớ văn thay đổi theo việc cầu nguyện của thí chủ.

Chứng nghĩa ghi rằng, nghi phóng sanh đời Lương dịch từ Kinh Kim Cang Minh như thế. Nếu căn cứ 2 bản dịch đời Tùy-Đường đều có lời chú Kinh Phạm Võng cũng có nói việc phóng sanh. Ngoài ra, khảo cứu luật tạng, kẻ nữ sĩ trước thọ tam quy, sau truyền 5 giới không cho vượt bực. Cho nên nay phóng sanh nhưng chỉ nói Tam Quy mà không cần nói thêm 5 giới. Có người hỏi Ngài Vân Thê Liên Trì rằng:

- Thuyết pháp đối với người do người chưa tin nên khuyến khích phát tâm, súc vật làm sao hiểu được?

Sư đáp rằng:

- Tánh nơi hàm linh không thể nghĩ bàn, đặt kỳ vọng nơi loại súc vật hoàn toàn không biết được. Con linh (giống như chuồn chuồn mà không bay xa được) sống trong bầu trời, chim đại bàng biết luật, con cọp vểnh tai nấp đất nghe ngóng, con lân đổ nước mắt cảm tâm. Những loại như thế so sánh ở đây đủ biết… Giá như nghiệp nó nặng không biết cũng là một loài thiện ở vị lai. Ví như mùa đông trời lạnh xuống thấp, mùa xuân ấm áp tự nhiên cây cối nẩy mầm. Chỉ lấy tâm từ hướng đến để nói, hành giả tự có được phước, nên phải giáo hóa không phân người, súc vật, cho chí phóng sanh cảm ứng đời sống bên trong rất nhiều. 

Nay lược nêu ra một số điều rất cổ như Kinh Kim Quang Minh quyển 4 nói về cha con trưởng giả Lưu Thủy trên đường đi thấy một ao nước cạn có 10,000 con cá sắp chết, 4 bề vùng vẫy. Lúc đó trưởng giả cho nước và thức ăn cho cá mà cứu được chúng rồi cá lội xuống ao. Ông trưởng giả giảng cho cá pháp 12 nhân duyên và niệm “Nam Mô Bảo Thắng Như Lai”. Về sau, 10,000 con cá ấy đều sanh lên trời Đao Lợi, chúng biết đời trước mình là cá và được cha con ông trưởng giả cho nước uống và thức ăn. Lại vì bọn chúng, ông giảng pháp 12 nhân duyên và niệm danh hiệu Phật Bảo Thắng Như Lai. Vì nhân duyên đó khiến đời sau chúng được sanh cõi trời. Đây là cách báo ân, mỗi con cá cầm một chuỗi trân châu anh lạc tới nhà ông trưởng giả Lưu Thủy dâng ngọc báu, tán hoa. Ông trưởng giả Lưu Thủy lúc đó, nay chính là Phật Thích Ca Mâu Ni; 10,000 con cá lúc đó nay là 10,000 thiên tử đều mong Phật truyền đạo Bồ Đề

Đời Tùy Ngài Thiên Thai trí giả đại sư ở chùa Tu Thiền tại Đài Châu, lấy y mặc khuyên người bán một sở đất làm ao phóng sanh: Ngài thường ở đó giảng Kinh Kim Quang Minh, bổng một hôm thấy vô số chim hoàng tước tới trước giảng đường tụ tập về đây trong nửa ngày, rồi kêu lên tiếng buồn rồi bay đi. Đại sư thấy chim nói rằng: “đây là cá sông hóa làm chim hoàng tước tới tạ ân Ta đó, nay là chùa Đại Từ vậy.”

Lại đời Tùy, có Kế Vũ nhậm chức ở Đài Châu làm quận trưởng, thường mời Thiên Thai trí giả giảng Kinh Kim Quang Minh phẩm Lưu Thủy trên sông, ngư dân nghe pháp đều tôn trọng sanh mạng bỏ nghiệp sát hại. Vũ sau trở lại kinh đô ngồi thiền thấy mình mắc tội bị hạ ngục. Đương gặp lúc lâm nguy ấy bèn trực nhớ tới cầu đại sư, thân tới cứu hộ. Đêm đó mộng thấy đàn cá thổi bọt tung nước. Sáng sớm hôm sau, Vua ra lịnh bắt Kế Vũ hài tội. Căn cứ chuyện này lấy từ Kinh Kim Quang Minh một đoạn chỗ trưởng giả Lưu Thủyphóng sanh là việc điển hình sớm nhất. Cho nên Kinh Kim Quang Minh phẩm phóng sanh là pháp quan trọng đáng tin mà về sau các bậc hiền phải biết đó.

1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49657)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34586)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33416)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43860)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56971)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47488)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39376)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38424)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52868)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36559)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32196)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40391)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43419)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31416)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46664)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36127)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28656)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29180)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31835)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28760)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33305)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29071)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60940)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39681)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26608)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29622)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37293)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40027)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26806)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42593)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37210)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28247)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28854)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26350)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27122)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26153)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34539)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27765)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30432)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33197)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28513)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30025)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25455)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21808)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51223)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26649)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28572)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27663)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24311)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27415)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31873)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30132)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27653)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35378)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27397)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29970)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31692)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22975)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24130)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22973)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant