Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 3: Đầu-đà

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8524)
Phẩm 3: Đầu-đà

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Quyển Hai

Phẩm 3: Đầu-đà

Hỏi: Vào thời ấy, nếu người ngồi thiền, giới đã được thanh tịnh mà lòng muốn được công đức lành cao nhứt của hạnh đầu-đà, thì phải suy xét như vầy: thọ trì hạnh đầu-đà được công đức như thế nào?

Đáp: Vì tánh các người ngồi thiền chẳng đồng, nên (việc thọ trì hạnh đầu-đà có thể là vì ít muốn, vì biết đủ, vì sự chẳng nghi nan, vì sự đoạn diệt tham ái, vì muốn tinh tấn tăng thêm dõng mãnh, vì muốn dùng ít để khỏi nhận của kẻ khác bố thí, vì muốn được an trú, vì dẹp bỏ các ràng buộc, vì muốn khéo giữ giới. Các công đức đó trang bị đầy đủ cho Định, và là dòng giống của các bực Thánh trước kia. Đấy là những công đức thù thắng của hạnh Đầu-đà, cần phải nên quán chiếu.

Hạnh Đầu-đà là gì? Có tất cả mười ba pháp:

- hai pháp về quần áo: phấn tảo y và ba y (y= áo; phấn = buị bặm; tảo = tắm giặt; phấn tảo y là áo do lượm vải dơ bỏ ở hố rác về giặt sạch mà may mặc.);

- năm pháp về sự khất thực: khất thực, khất thực theo thứ lớp, chỉ một lần ngồi ăn, khéo đo lường bữa ăn, quá giờ chẳng ăn. (Khất = đi xin, thực = ăn.);

- năm pháp về nằm, ngồi: một, ngồi nơi nhàn tịnh (= vô sự xứ); hai, ngồi dưới bóng cây; ba, ở chỗ trống chẳng che; bốn, ở nơi mồ mả; năm, ở tuỳ chỗ gặp được (= ngộ đắc xứ);

- một pháp về tinh tấn dõng mãnh: thường ngồi chẳng nằm.

Ý nghiã của Phấn tảo y là gì? Đáp: Có ý nghiã là giúp cho việc thọ trì. Các điều còn lại cũng như vậy.

Thọ trì phấn tảo y là thế nào? Là để từ chối của cải do cư sĩ bố thí.

Thọ trì ba y là như thế nào? Là để diệt bỏ sự tích trữ y phục.

Ý nghiã của khất thực là gì? Là để tránh bỏ sự thỉnh mời của kẻ khác.

Ý nghiã của việc khất thực theo thứ lớp là gì? Là để tránh sự vượt quá khi đi khất thực.

Ý nghiã của việc chỉ một lần ngồi ăn là gì? Là để tránh ngồi lại ăn thêm nữa.

Ý nghiã của việc khéo đo lường bữa ăn là gì? Là để diệt bỏ lòng tham ăn quá.

Ý nghiã của việc quá giờ chẳng ăn là gì? Là để đoạn bỏ bụng còn muốn ăn thêm nữa.

Ý nghiã của việc ngồi nơi nhàn tịnh là gì? Là để tránh việc trú nơi xóm làng.

Ý nghiã của việc ngồi dưới bóng cây là gì? Là để bỏ việc trú trong nhà cửa.

Ý nghiã của việc ở chỗ trống chẳng che là gì? Là để lià bỏ các nơi có che phủ bên trên.

Ý nghiã của việc ở nơi mồ mả là gì? Là để lià bỏ việc chọn các nơi khác tốt hơn để ở.

Ý nghiã của việc ở tùy chỗ gặp được là gì? Là để diệt bỏ sự ham muốn được ở nơi các chỗ vui tốt.

Ý nghiã của việc thường ngồi chẳng nằm là gì? Là để lià xa giường ngủ.

Tại sao thọ trì phấn tảo y? Thấy được lỗi lầm trong việc cầu xin áo nơi các cư sĩ và thấy được công đức của việc mặc áo nạp y (= áo may ráp nhiều mảnh vải lại); tôi thấy như thế, nên quyết từ chối áo cư sĩ thí cúng, hầu thọ trì việc mặc áo nạp y.

Công đức của việc mặc áo nạp y như thế nào? Cũng giống với áo được cư sĩ thí, chẳng khiếm khuyết chi, chẳng do kẻ khác mà có được, mất đi chẳng lo buồn, tâm chẳng tham nhiễm, trộm cướp chẳng đoạt lấy, đủ cho sự cần dùng hằng ngày, ít chỗ tạo dựng. Người lành tập theo hạnh nầy được sự chẳng nghi nan, hiện an trú trong niềm vui của pháp, được kẻ khác hâm mộ và noi theo, khiến đắc được chánh thọ. Đó là công đức của việc thọ trì nạp y, được Đức Phật khen ngợi.

Hỏi: Có mấy loại nạp y? Ai thọ trì? Vì cớ gì thọ trì bị thất bại?

Đáp: Có hai loại nạp y: thứ nhứt, chẳng có chủ giữ gìn; thứ hai, bị người đời quẳng bỏ. Hoặc nơi mồ mả, hoặc nơi hố rác, hoặc nơi chợ búa, hoặc nơi đường xá, lượm vải lên đem nấu, giặt sạch, nhuộm, cắt may thành áo mặc. Đó là loại nạp y vô chủ. Hoặc phần vải còn dư sót lại chỗ bị trâu, chuột gặm nhấm, hoặc bị lửa cháy sém, hoặc được người ném bỏ, vải bọc thi thể người chết, hay y phục của kẻ ngoại đạo vứt đi. Đó là loại nạp y được người đời quẳng bỏ.

Thế nào là thọ trì phấn tảo y? Nếu Tỳ-kheo từ khước áo do cư sĩ cúng thí, đó là thọ phấn tảo y. Khi nào thất bại việc thọ trì? Khi Tỳ-kheo thọ nhận của cư sĩ, đó là việc thọ trì nạp y bị thất bại.

Thế nào là thọ trì việc giữ ba y? Khi có một bộ y trội dư, nên phải khước từ ngay, đem cho chẳng giữ, để khỏi vướng ràng buộc. Biết được như vậy là thấy được công đức của việc giữ ba y, và tự nguyện rằng: Kể từ hôm nay, tôi xả bỏ y trội dư để thọ trì việc giữ đúng ba y.

Thế nào là công đức thọ trì việc giữ ba y? Người lành tập hạnh nầy, lià được sự chất chứa của cải thừa thãi, ít lo xây cất, kềm giữ thân biết đủ, như chim bay trên không chẳng luyến nhìn lại phiá sau. Người lành tập pháp nầy đắc được sự chẳng nghi nan.

Hỏi: Ba y gồm có những gì? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại việc thọ trì?

Đáp: Ba y gồm có: (1) Tăng-già-lê (Sanghàti, áo tràng phía ngoài), (2) Uất-đa-la-tăng (Uttarasanga, áo giữa) và (3) An-đà-hội (Antaravàsaka, áo trong). Đó gọi là tam y.

Thế nào là thọ trì giữ ba y? Nếu Tỳ-kheo chẳng cất chứa y dư trội, đó là thọ trì ba y. Nếu cất giữ y thứ tư, đó là thất bại trong việc thọ trì.

Thế nào là thọ trì việc khất thực?

Nếu nhận lời mời của kẻ khác, thì phải xếp bỏ việc của mình lại, chẳng được thoải mái, và kề gối ngồi chung với kẻ khác là chẳng đúng pháp. Biết lỗi đó và thấy được công đức của việc đi khất thực, nên tự nguyện rằng kể từ hôm nay, tôi từ chối việc người khác mời và thọ trì pháp đi khất thực.

Thế nào là công đức việc đi khất thực? Theo tâm sở nguyện, đi tới hay dừng lại được tự do, khỏi lo lắng nấu nướng, dẹp bỏ lười biếng, trừ được kiêu mạn, chẳng tham lam mùi vị, lợi ích chúng sanh, nơi bốn phương lòng chẳng ngăn ngại. Người lành theo hạnh nầy được sự chẳng nghi nan.

Hỏi: Mời thỉnh có mấy loại? Thế nào là thọ trì khất thực? Thế nào là thất bại việc thọ trì khất thực?

Đáp: Mời có ba loại: thứ nhứt, mời riêng; thứ hai, mời chung; thứ ba, mời nhiều bận. Chẳng nhận ba loại mời đó là thọ trì việc đi khất thực. Nếu nhận lời mời, thì việc khất thực thất bại.

Thế nào là khất thực theo thứ lớp?

Nếu khất thực theo thứ lớp, thì chẳng thường đến nơi có nhiều đồ ăn mỹ vị. Nếu lại thường đến đó, thì chỉ là khất thực thường thôi. Nếu có chỗ đáng nghi ngờ, thì tránh xa. Biết được các lỗi đó và thấy được công đức của việc khất thực theo thứ lớp, nên tự nguyện kể từ hôm nay, tôi xả bỏ lối khất thực chẳng theo thứ lớp và thọ trì việc khất thực theo thứ lớp.

Thế nào là công đức của việc khất thực theo thứ lớp? Lấy tâm bình đẳng làm lợi ích cho tất cả, trừ được ganh ghét xấu ác, tránh rong chơi đùa bỡn, chẳng thích được mời mọc, chẳng ưa nhiều lời, xa lià nơi nhà người, bỏ lối đi gấp gáp; như vầng trăng tròn ít khi hiện lên, nên được người đời chiêm ngưỡng. Người lành hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.

Hỏi: Thế nào mới gọi là khất thực theo thứ lớp? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại?

Đáp: Vừa mới ra đi khất thực, Tỳ-kheo vào trong xóm làng, bắt đầu từ ngôi nhà cuối cùng lần lượt đi tới cho đến hết, đó là khất thực theo thứ lớp. Thế nào là thất bại? Nếu vượt qua bỏ sót nhà nào, đó là thất bại.

Thế nào là thọ trì việc chỉ một lần ngồi ăn?

Ngồi ăn hai nơi, lấy thức ăn nhiều lần, rửa bát nhiều bận, những cử chỉ đó nên tránh phạm, đó gọi là chỉ một lần ngồi ăn. Người lành làm theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan. Biết được lỗi lầm như thế, thấy công đức của việc chỉ một lần ngồi ăn, nên tự nguyện kể từ hôm nay, tôi xả bỏ việc ngồi ăn hai nơi, thọ trì việc chỉ một lần ngồi ăn.

Thế nào là công đức của việc chỉ một lần ngồi ăn? Chẳng nhiều chẳng ít, chẳng tham của bố thí chẳng được trong sạch, tránh mọi bịnh tật phiền não, yên sống chẳng bị ngăn ngại, việc mình an vui. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.

Hỏi: Thế nào là chỉ một lần ngồi ăn? Có những giới hạn nào? Thế nào là thất bại việc thọ trì?

Đáp: Có ba giới hạn: giới hạn về ngồi, giới hạn về nướcgiới hạn về ăn. Thế nào là giới hạn về ngồi? Ăn rồi, chẳng còn ngồi nán. Uống nước, rửa chén xong, chẳng được ăn nữa. Đó là giới hạn về nước. Thế nào là giới hạn về ăn? Khi đang ăn, nghĩ rằng đây là miếng ăn chót, hễ nuốt xong, thì chẳng ăn nữa. Đó là giới hạn về ăn.

Nếu đã ngồi hai lần để ăn thì đã thất bại việc thọ trì chỉ một lần ngồi ăn. Trừ khi phải dùng thuốc thang, còn việc ăn hai lần, bị Đức Phật quở trách. Đó là giới hạn về ăn.

Thế nào là thọ trì việc khéo đo lường bữa ăn?

Nếu ăn uống quá độ, thân thêm nặng, hay buồn ngủ, thường sanh sự thèm ăn mãi chẳng chán. Đã biết lỗi lầm đó, thấy được công đức của việc khéo đo lường bữa ăn, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi dẹp bỏ sự tham ăn và thọ trì việc khéo đo lường bữa ăn.

Thế nào là công đức của việc khéo đo lường bữa ăn? Trù liệu đo lường bữa ăn chẳng tùy theo cái bụng để khỏi buông lung, ăn nhiều sanh thêm yếu mệt nên chẳng thích ăn nhiều, trừ tham, diệt bịnh, dẹp bỏ sự lười nhác. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.

Thế nào là thọ trì việc khéo đo lường bữa ăn? Thế nào là thất bại trong việc thọ trì?

Đáp: Khi ăn uống, nên suy xét sức mình kham được nhiều ít mà lấy đó làm chừng mực, chẳng dùng quá, khéo trù lượng, dẹp sự vô độ, đó gọi là khéo đo lường bữa ăn. Nếu chẳng biết như vậy, ắt thất bại việc thọ trì.

Thế nào là thọ trì việc quá giờ chẳng ăn?

Đoạn trừ vọng tưởng, bỏ việc ăn vặt; biết được chỗ lỗi lầm đó, thì thấy được công đức của việc quá giờ chẳng ăn, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi bỏ việc ăn thêm, thọ trì việc quá giờ chẳng ăn.

Thế nào là công đức của việc quá giờ chẳng ăn? Dứt trừ được sự ham thích ăn, giữ gìn thân thể, bỏ việc ăn đêm, ngưng việc lăng xăng tầm cầu, khỏi hỏi xin ai, chẳng chiều theo lòng ham muốn. Người lành theo hạnh nghiệp nầy nên được sự chẳng nghi nan.

Hỏi: Quá giờ có mấy thứ? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại việc thọ trì?

Đáp: Có hai thứ quá giờ: giới hạn của sự chẳng tiết độ và giới hạn của sự thọ trì. Thế nào là giới hạn của sự chẳng tiết độ? Đáp: Nhận ăn thêm khi được mời riêng, đó là tội, chẳng được ăn nữa. Thế nào là giới hạn của việc thọ trì? Đã ăn đến miếng ăn thứ hai mươi mốt rồi, chẳng được ăn thêm; thọ trì việc quá giờ chẳng ăn ắt phải đoạn bỏ chẳng ăn thêm. Nếu có ăn thêm, thì thất bại việc thọ trì quá giờ chẳng ăn.

Thế nào là thọ trì việc ngồi nơi nhàn tịnh?

Nơi làng mạc huyên náo, tâm thức xúc chạm đến năm trần (= sắc, thanh, hương, vị, xúc), tâm bị ô nhiễmchạy theo thú vui. Nếu ở nơi ồn ào, nhiều người đi qua lại, tâm sanh loạn động. Biết được các lỗi lầm đó và thấy được công đức của nơi nhàn tịnh, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi chẳng trú trong làng mạc và thọ trì việc ở nơi nhàn tịnh.

Thế nào là công đức của nơi nhàn tịnh? Lìa nơi làng mạc huyên náo, tâm thức xúc chạm đến năm trần, tâm bị ô nhiễmchạy theo thú vui. Nếu ở nơi ồn ào, nhiều người đi qua lại, tâm sanh loạn động. Biết được công đức tối thắng của thập ngữ (= mười lời nói) mà Trời Người đều khen ngợi, chẳng dua theo thế tục, được niềm vui tịch tĩnh (= yên lặng), ít tiếng động, tùy tâmngồi thiền. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.

Hỏi: Thế nào là nơi nhàn tịnh gần nhứt? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại?

Đáp: Lìa nơi nghỉ trong đô thành, ra ngoại ô tránh chỗ ngoài bià xa, giữ khoảng cách chừng năm trăm cung, (mỗi cung bằng bốn khuỷu tay), đó là nơi nhàn tịnh gần nhứt. Trừ ở nơi làng mạc, đó gọi là nơi nhàn tịnh. Nếu cư trú lại ở nơi làng mạc, ắt thất bại việc thọ trì ngồi nơi nhàn tịnh.

Thế nào là thọ trì việc ngồi dưới bóng cây?

Lìa bỏ các nơi có che phủ bên trên, chẳng chứa súc vật, để đối trị sự tham ái mong cầu. Biết được như thế, thấy được công đức ngồi dưới bóng cây, nên tự nguyện, kể từ ngày hôm nay, tôi lìa bỏ những nơi được che phủ bên trên, để thọ trì việc ngồi dưới bóng cây.

Thế nào là công đức của việc ngồi dưới bóng cây? Nương nơi cây mình thích, chẳng giao thiệp với đời, vui rời mọi công việc, cùng ở với bực Trời, dứt được sự ganh tị về nơi cư trú, lìa được sự trìu mến ràng buộc. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.

Hỏi: Cây nào trú được? Cây nào nên lìa xa? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại?

Đáp: Vào ban ngày, khoảng có bóng cây rọi xuống; vào khi chẳng gió, khoảng có lá rơi xuống; đó là những nơi có thể trú, trừ cây quá già cỗi nguy hiểm, cây to có lỗ hổng, cây có qủi thần ở. Lià những nơi có che phủ bên trên là thọ trì việc ngồi dưới bóng cây. Nếu đến ở những nơi được lợp che, ắt thất bại việc thọ trì.

Thế nào là thọ trì việc ở chỗ trống chẳng che?

Chẳng thích ở những nơi có lợp che bên trên và các cây cối có buộc giữ súc vật; biết được các lỗi lầm đó, thấy được công đức của việc ở chỗ trống chẳng che, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi lìa bỏ sự vui thích được ở những nơi có che phủ bên trên.

Thế nào là công đức của việc ngồi ở chổ trống chẳng che? Chẳng lai vãng đến các nơi chẳng vui, đoạn trừ được sự lười nhác, buồn ngủ; cũng tựa như con nai rừng mặc ý đi tới đi lui, nào có gì đâu để luyến nhớ. Người lành theo hạnh nguyện nầy được sự chẳng nghi nan.

Thế nào là thọ? Thế nào là thất? Lìa bỏ các nơi có che phủ bên trên và nơi dưới bóng cây, đó là ngồi ở chỗ trống chẳng che. Nếu trú tại nơi có che lợp và dưới lùm cây, ắt thất bại trong việc thọ trì ngồi ở chỗ trống chẳng che.

Thế nào là ở nơi mồ mả?

Nếu ở tại các nơi khác, thường sanh lười nhác, chẳng khởi lên sự lo sợ điều ác. Biết được các lỗi lầm đó, thấy được công đức của việc ở nơi mồ mả, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi lìa bỏ các nơi khác, để thọ trì việc ở nơi mồ mả.

Thế nào là công đức của việc ở nơi mồ mả? Đắc được niệm về sự chết, thấy được tướng bất tịnh (= chẳng sạch), được các phi nhơn (= bực chẳng phải người, tức là các bực thần linh khác) kính trọng, chẳng khởi lười nhác, đè nén được các đam mê ô nhiễm, nhàm chán nhiều về các lo lắng ràng buộc, chẳng sợ hãi các điều đáng sợ, quán chiếu thân tâm rỗng rang, đoạn trừ tư tưởng về thường hằng. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.

Hỏi: Thế nào là công đức của việc ở nơi mồ mả? Chỗ nào ở được, đi được? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại?

Đáp: Nếu nơi dự định đến ở chỗ có người đang khóc than, hoặc có khói lửa, nên quan sát trước chỗ ở khác tiện hơn. Khi đến ở nơi mồ mả, Tỳ-kheo chẳng nên che phòng, kê giường, nên ngồi xây lưng vào gió để cho mặt chẳng hứng gió. Trong thời gian nằm ngồi, chẳng nên ăn cá, chẳng uống sửa bơ, chẳng ăn mè, chẳng chạm thịt thú, chẳng ở trong nhà, chẳng dùng chén diã. Lúc ra đi cầm theo gối ngồi, áo quần, đến khi tới ở nơi mồ mả, thì coi như đã vất bỏ tất cả vật sở hữu của mình. Bình minh vừa lố dạng, liền thu thập gối áo trở về chùa, chẳng ghé nơi nào khác. Nếu đi đến chỗ khác nữa, ắt thất bại việc thọ trì.

Thế nào là thọ trì việc ở tùy chỗ gặp được?

Chẳng thích ở chỗ mà mọi người ham muốn được ở, chẳng buồn phiền khi phải rời khỏi chỗ mà kẻ khác muốn mình phải nhường; biết được chỗ lỗi lầm đòi ở chỗ tốt đó, thấy được công đức của việc cứ ở tuỳ chỗ nào gặp được, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi bỏ sự tham muốn được ở chỗ tốt, và thọ trì việc ở tuỳ chỗ gặp được. (= gặp đâu ở đó mà chẳng khen chê).

Thế nào là công đức của việc ở tùy chỗ gặp được? Tìm nơi biết đủ, mến sự tịch tịnh (= thanh vắng), lià bỏ mọi tiện nghi ưa thích, được người đời kính trọng, an trú trong tâm từ bi. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.

Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại? Dứt trừ sự tham muốn về nơi chốn an nghỉ, đó là y theo chỗ vừa gặp được. Nếu đến nơi nào khác vui thích hơn, thì gọi là thất bại.

Thế nào là thọ trì việc thường ngồi chẳng nằm?

Nơi chỗ cư trú, thường hay ngủ nghỉ, lười nhác; biết được lỗi lầm đó, thấy được công đức của việc thường ngồi chẳng nằm, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi dứt bỏ việc nằm ngủ mê, thọ trì việc thường ngồi chẳng nằm.

Thế nào là công đức của việc thường ngồi chẳng nằm? Dứt trừ sự lười nhác khiến thân dễ bị bịnh tật, tránh được các thú vui ô nhiễm đến cảm xúc, bớt được sự lừ đừ buồn ngủ, thường trầm lặng nhiều, kham tu thiền cao. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.

Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại? Biết thọ trì thì cắt đứt được việc nằm dài ngủ mê. Nếu lăn ra ngủ say thì thất bại.

Thế nào là châm chước thọ trì về y phấn tảo?

Nếu được cư sĩ cúng thí áo sô, áo gai, áo vải, áo nỉ các loại, với sự châm chước (ở đây, có nghiã là linh động giảm bớt, chế bớt) mà nhận, thì chẳng thất việc thọ trì y phấn tảo.

Thế nào là châm chước việc thọ trì ba y? Nếu phải giữ áo dư lại quá mười ngày, áo vào dịp lễ dâng y, hay các áo tạm kê đầu nằm, phủ giường, băng bó nhọt trên da, khăn tay, khăn tắm, thì chẳng được nhận, nếu đó là của thí bất tịnh (bất tịnh = ý nói, của đã dùng để bố thí chẳng được trong sạch). Nếu châm chước dùng thì chẳng thất việc thọ trì tam y.

Thế nào là châm chước việc thọ trì khất thực? Nhận thực phẩm hiến chung cho Tăng đoàn, thực phẩm thường trú (được cung cấp đều đặn), thực phẩm cấp theo phiếu, thực phẩm cấp hàng nửa tháng, thực phẩm vào dịp lễ Bố tát, thực phẩm chung cho mọi người, thực phẩm hiến cho tu viện, thì có thể châm chước, chẳng thất lỗi trong việc phải đi khất thực. Thấy có chút lỗi gì trong việc nhận thực phẩm, thì chẳng nhận.

Thế nào là châm chước việc khất thực theo thứ lớp? Thấy ngoài cửa có voi ngựa đang đấu cắn nhau (...), nên tránh đi; hoặc thấy chiên-đà-la (= người giai cấp hạ tiện) đang che bát, hoặc Tỳ-kheo theo hoà thượng hay a-xà-lê (= vị giáo thọ), thì cũng châm chước mà vượt qua, chẳng thất lỗi về việc khất thực theo thứ lớp.

Thế nào là châm chước về việc chỉ một lần ngồi ăn? Nếu đang ăn đúng giờ mà thấy có voi, ngựa, rắn, hoặc có hoà thượng, a-xà-lê, khách Tỳ-kheo đến, thì có thể châm chước đứng lên chào kính, xong rồi ngồi ăn tiếp, cũng chẳng thất lỗi về việc chỉ một lần ngồi ăn.

Về hai việc: khéo đo lường bữa ăn, quá giờ chẳng ăn, thì chẳng thể có sự châm chước nào cả.

Thế nào là châm chước về việc ngồi nơi nhàn tịnh? Nếu vì đi dự các lễ thọ giới, sám hối, giảng pháp, bố-tát (= lễ đọc tụng Giới luật), tự tứ (lễ chấm dứt mùa an cư kết hạ), hoặc vì mình bị bịnh, hoặc đi săn sóc người bịnh, giải đáp thắc mắc trong Kinh, và các dịp khác tương tợ, mà phải đi vào làng xóm, thì chẳng thất lỗi về việc ngồi nơi nhàn tịnh.

Thế nào là châm chước về việc ngồi dưới bóng cây? Nếu gặp mưa, thì vào trú nơi có che lợp, trời tạnh thì trở ra lại mà chẳng thất lỗi về việc ngồi dưới bóng cây.

Về các việc: ở chỗ trống chẳng che, ở nơi mồ mả, ở tùy chỗ gặp được, sự châm chước cũng tương tự, có thể tìm nơi có che lợp mà tạm trú.

Về việc thường ngồi chẳng nằm, chẳng có sự châm chước nào. Nhưng có thuyết cho rằng, khi nhểu thuốc vào lỗ mũi, thì có thể châm chước mà chẳng thất lỗi về việc thường ngồi chẳng nằm.

Mười ba hạnh Đầu-đà thành mãn thì qui về tám pháp. Như trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng) có nói đến tám pháp đó: hạnh quá giờ chẳng ăn bao gồm cả hạnh khéo đo lường bữa ăn và hạnh chỉ một lần ngồi ăn; thọ trì hai hạnh nầy thì cả ba hạnh thành chung một loại. Còn hạnh ngồi nơi nhàn tịnh thì thâu nhiếp (= bao gồm vào) cả ba hạnh: ngồi dưới bóng cây, ở chỗ chẳng che ở nơi mồ mả. Tại sao lại ngồi nơi nhàn tịnh? Nếu mưu tính xây cất nhà cửa, ham thích làm công việc lắm tiền, nhiều nơi chất chứa, tham đắm chỗ ở, tâm chẳng được an vui mà làm như vậy, nên ý liền nghĩ đến việc ngồi dưới bóng cây, ở chỗ chẳng che, nơi mồ mả, là nơi trú ngụ thanh nhàn an tịnh. Do đấy mà thành tám pháp.

Tám hạnh đầu-đà lại qui về ba pháp. Đó là: thứ nhứt, ở nơi nhàn tịnh; thứ hai, y phấn tảo; thứ ba, đi khất thực. Nếu thọ trì ba hạnh đầu-đà nầy được thanh tịnh, thì toàn thể các hạnh đầu-đà đều thành mãn. Như Đức Phật đã quở Tôn giả Nan-đà: "Đến thời nào mới thấy ông thọ trì thành tựu: ngồi nơi nhàn tịnh, thọ y phấn tảo, quá giờ chẳng ăn, trong khi ông vẫn còn lo nâng niu thân mạng, chẳng nhận thấy ra chỗ tham dục (= tham đắm thú vui)?

Hỏi: Thế nào là đầu-đà phần? Đầu-đà có mấy loại pháp? Hạng người nào có thể tu hạnh đầu-đà? Hành hạnh đầu-đà, phải tùy vào thời tiết cách nào?

Đáp: Có mười ba hạnh đầu-đà do Đức Phật thuyết giảng. Đó là những giới luật do Đức Phật chế đặt ra và được gọi là Đầu-đà phần (= các yếu tố tạo nên các hạnh đầu-đà).

Trong ba hạng người thiện, bất thiện (= chẳng lành) và vô ký (= chẳng thiện chẳng ác), chẳng nên giảng hạnh đầu-đà cho người bất thiện. Tại sao? Vì người bất thiện, với sự ham muốn điều dữ ác, và với sự tham lam lợi dưỡng mà khởi lên sự phi pháp, do đó, chẳng giảng hạnh đầu-đà cho kẻ bất thiện.

Đầu-đà có mấy loại pháp? Có hai pháp: bất tham bất si (bất = chẳng; si = ngu tối, si mê). Như Đức Phật bảo: "Tỳ-kheo nào thọ trì y phấn tảo, thì được ít muốn biết đủ, yên vui chẳng nghi nan, được sự giải thoát, nên được gọi là người thọ trì y phấn tảo." Các hạnh đầu-đà còn lại, cũng như thế, đều là bất tham, bất si. Do sự bất tham đó mà trừ được sự tham dục (= ham muốn) tại mười ba chỗ trong mười ba hạnh đầu-đà. Do sự bất si đó mà trừ được sự vô minh (= chẳng sáng, tức là sự si mê ngu tối) cũng tại mười ba chỗ.

Lại nữa, do sự bất tham đó, như Đức Phậthứa khả, mà khởi sanh sự nhàm chán, tương tợ như sự chẳng nghi nan, trừ được chỗ nhiễm dơ của dục vọng (= ham muốn) và dối gạt. Do sự bất si đó, cũng giống như thế, trừ được sự mỏi mệt của thân thể, và sự dối gạt. Đấy là hai pháp đầu-đà: bất tham và bất si vậy.

Thế nào là ba hạng người tu hạnh Đầu-đà? Đó là người tham, người sân và người si. Người sân khuể (= hay giận hờn) chẳng thể tu hạnh Đầu-đà. Tại sao vậy? Hạng người tham, si (si mê, ngu tối) có thể tu được; như người tham vì quá luyến ái mà sanh ra lười nhác, nay nếu bỏ được sự lười nhác đi thì có thể trị dứt sự tham cũng như sự ngu tối, trở nên chẳng nghi nan mà theo hạnh đầu-đà, rồi dứt được sự lười nhác. Nếu chẳng lười nhác, ắt khắc phục được sự si mê. Tại sao chỉ có người tham và người si tu được hạnh đầu-đà? Vì người sân chẳng thể thọ trì hạnh đầu-đà được, nếu cố mà thọ trì, cũng chỉ làm tăng thêm điều ác (tức là giận hờn), tựa như người bị bịnh đàm nếu dùng thang thuốc nóng chỉ làm bịnh tăng thêm thôi. Vì lẽ đó, người hay giận hờn chẳng nên tu theo hạnh Đầu-đà.

Lại có thuyết cho rằng, người hay giận hờn cũng có thể thọ trì được hai: hạnh ngồi nơi nhàn tịnh và hạnh ngồi dưới bóng cây; vì lẽ khi ở tại hai nơi nầy, thì ít thấy những nỗi khổ của thế gian.

Về thời tiết khi tu hạnh Đầu-đà, thì ba hạnh ngồi dưới bóng cây, ở chỗ trống chẳng che, ở nơi mồ mả, có thể tu tập trong tám tháng. Vào mùa An cư (mùa mưa), Đức Phật cho phép vào trú trong những nơi có che lợp.

Hỏi: Thế nào là Đầu-đà thuyết giảng về hạnh đầu-đà?

Đáp: Đầu-đà thuyết giảng về hạnh đầu-đà, cũng có Đầu-đà chẳng thuyết giảng về hạnh đầu-đà, có Phi đầu-đà (Phi = chẳng phải) thuyết giảng về hạnh đầu-đà, có Phi đầu-đà chẳng thuyết giảng về hạnh đầu-đà.

Thế nào là Đầu-đà thuyết giảng về hạnh đầu-đà? Đó là bực A-la-hán đã thành tựu hạnh đầu-đà.

Thế nào là Đầu-đà chẳng thuyết giảng về hạnh đầu-đà? Đó là bực A-la-hán chẳng thành tựu hạnh đầu-đà.

Thế nào là Phi đầu-đà thuyết giảng về hạnh đầu-đà? Đó là bực học nhơn (kẻ còn đang tu học) và phàm phu (người thường) đã thành tựu được các hạnh đầu-đà.

Thế nào là Phi đầu-đà chẳng thuyết giảng về hạnh đầu-đà? Đó là bực học nhơn và phàm phu chẳng thành tựu các hạnh đầu-đà.

Hỏi: Tướng, Vị và Khởi của hạnh đầu-đà là gì?

Đáp: Hình tướng của hạnh đầu-đà là sự ít ham muốn. Đạo vị của hạnh đầu-đà là sự biết đủ. Sự phát khởi của hạnh đầu-đà là sự chẳng nghi nan.

Lại nữa, hình tướng của hạnh đầu-đà còn là sự chẳng bị ràng buộc; đạo vị của hạnh đầu-đà còn là sự tiết độ và sự khởi phát của hạnh đầu-đà còn là sự chẳng lùi sụt.

Thế nào là các giai đoạn của hạnh đầu-đà? Thọ trì là giai đoạn đầu, tu hành là giai đoạn giữa, và niềm vui lành là giai đoạn chót.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33337)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6574)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11327)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30430)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30455)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8005)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12235)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12277)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11635)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12877)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34836)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9867)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52294)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10776)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10545)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10743)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10491)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13105)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16314)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21886)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9644)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7150)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10411)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12800)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12820)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16263)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16558)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13893)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16623)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12157)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13865)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14348)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9232)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11772)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11297)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16367)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14381)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16220)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12710)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12110)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11819)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15695)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11542)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14041)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12033)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12686)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15016)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11983)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13152)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14582)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20753)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13256)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10987)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20742)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14388)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20423)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17683)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14049)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31877)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12038)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant