Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Tìm Hiểu về Phẩm 1: Nhân Duyên

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8451)
Phần Tìm Hiểu về Phẩm 1: Nhân Duyên

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm Hiểu về Phẩm 1: Nhân Duyên


001. Ý chánh của Phẩm 1: Nhân duyên.

Muốn cởi bỏ mọi khổ đau ràng buộc, dứt sự sợ hãi về sống chết, và đến được cõi Niết-bàn an lạc, thì phải thấu hiểu Tam tạng Kinh điển dạy rõ con đường giải thoát. Con đường ấy trải qua ba chặng: Giới, Định, Huệ.

002. Tóm tắt Phẩm 1: Nhân duyên.

Phẩm Nhân duyên mở đầu bằng bài Kệ khen ngợi công đức của Đức Phật đã giác ngộ được pháp Giải Thoát cao cả nên xứng danh là đấng Thế tôn (= được cả thế gian tôn trọng).

Sau khi cắt nghiã bài Kệ, vạch rõ thế nào là Giới, Định, Huệ, Phẩm (1) nầy gồm có các đoạn chánh sau đây:

1. Giải thoát đạo gồm có năm phần:

11. Phục giải thoát,
12. Bỉ phần giải thoát,
13.
Đoạn giải thoát,
14. Khinh an giải thoát,
15. Xuất ly giải thoát.

2. Mục đích việc giảng Giải thoát đạo là chỉ rõ con đường giải thoát cho ai còn chưa hiểu hay đã hiểu lầm, tựa như chỉ đường đi nước bước cho người đi xa chưa rành xứ lạ.

3. Theo Phục giải thoát, thì cần phải học ba môn học:

31. Giới họcTăng thượng Giới học,
32. Tâm họcTăng thượng Tâm học,
33. Huệ họcTăng thượng Huệ học.

4. Ích lợi thứ nhứt của việc tuân theo Phục giải thoát thành tựu được ba ấm: Giới, Định, Huệ.

41. Giới ấm gồm có: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng;
42. Định ấm gồm có:chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định;
43. Huệ ấm gồm có: chánh kiến, chánh tư duy.

5. Ích lợi thứ nhì là thành tựu được ba sự thanh tịnh: (1) giới thanh tịnh, (2) tâm thanh tịnh, (3) tri kiến thanh tịnh.

6. Ích lợi thứ ba là được ba điều thiện (= ba điều lành):

61. sơ thiện là Giới, điều lành ở bước đầu,
62. trung thiện là Định, điều lành ở giai đoạn giữa
63. hậu thiện là Huệ, điều lành ở giai đoạn cuối.

7. Ích lợi thứ tư là được ba niềm vui:

71. vô quá lạc, vui vì chẳng hề phạm tội lỗi,
72. tịch diệt lạc, vui vì được yên tịnh, an ổn,
73. chánh giác lạc, vui vì hiểu rõ Chánh pháp.

8. Ích lợi thứ năm là theo đúng con đường Trung đạo, xa lìa được nhị biên (= hai bên, tức là một bên theo sự ham muốn vui sướng [tham lợi dưỡng], còn một bên là ép xác cực khổ [ tu khổ hạnh quá mức ]).

9. Theo Phục giải thoát, tu học Giới Định Huệ, sẽ đắc được các quả:

91. Tu-đà-huờn và Tư-đà-hàm, nếu tu nhiều Giới mà ít Định và Huệ,
92. A-na-hàm, nếu tu nhiều Giới và Định, mà Huệ ít hơn,
93. A-la-hán, nếu tu cả ba đồng đều và đầy đủ.

003. Giải nghiã các chữ khó trong Phẩm 1:

Giải thoát đạo Luận: Giải = cởi mở; thoát = tránh khỏi; đạo = con đường, đường lối, cách thức; Luận = bộ Luận, tức là quyển sách do bực A-la-hán, Bồ-tát, viết để giảng rõ thêm về Chánh pháp nói trong Kinh. Bộ Luận nầy do Ngài A-la-hán Ưu ba đế sa (Upatissa, trùng tên với Ngài Xá-lợi-phất, Sariputta), viết có lẽ vào đầu thế kỷ thứ nhứt bằng tiếng Pàli, được dịch sang chữ Hán có lẽ vào thế kỷ thứ sáu, do Tam tạng pháp sư Tăng già bà la (Tipitaka Sanghapàla), ở đất Phù Nam, nước Lương [xin dè dặt về thời điểm và điạ danh]. Nguyên tác bằng tiếng Pàli đã bị mất hẳn, nên các tu sĩ Phật giáoTích lan đem bản chữ Hán trong Đại tạng, dịch ngược trở lại tiếng Pàli, nhan đề Vimutti Magga. Bản dịch Anh văn được Buddhist Publication Society ở Sri Lanka ấn hành năm 1961 dưới nhan đề là The Path of Freedom. Bản dịch của Thiện Nhựt căn cứ trên bản Hán văn trong bộ Càn Long Đại Tạng Kinh, quyển số 103, từ trang 620 đến trang 755 và quyển số 104, tiếp theo, từ trang 001 đến hết trang 048.

Nhân duyên: Nhân = nguyên nhân chánh, cớ chánh; duyên = nguyên nhân phụ, cớ phụ, còn gọi là điều kiện, nếu chẳng có đủ thì chẳng có kết quả sanh ra. Ở Phẩm nầy, chữ Nhân duyên có nghiã là các lý do vì đâu mà tác giả đã viết ra bộ Luận nầy.

Thế tôn: Thế = thế gian; tôn = trọng; đấng được cả thế gian tôn kính. Ở đây, chữ Thế tôn dành cho Đức Phật Thích-ca. Lúc Đức Phật còn sống, Ngài tự xưng là Như Lai, còn các đệ tử gọi Ngài là Thế tôn.

Ứng cúng: Ứng = xứng đáng, đáng nhận; cúng = đem lễ vật dâng hiến, cúng. Các bực Thánh xứng đáng nhận sự cúng dường của người khác, nên gọi là bực ứng cúng.

Chánh biến tri: Chánh = chơn chánh, đứng đắn; biến = cùng khắp, chẳng sót; tri = biết. Chánh biến tri là sự hiểu biết chơn chánh tất cả mọi sự vật, chẳng sót sự vật nào. Cùng với Ứng cúng, chữ Chánh biến tri là một danh hiệu của Đức Phật. (Phẩm 8: Hành môn, Chi 3 về Niệm Phật sẽ giải thích rõ về Mười Danh hiệu của Phật).

Vô thượng: Vô = chẳng có; thượng = ở trên; Vô thượng là cao hết sức cao, chẳng còn gì cao hơn nữa.

Hữu xứng: Hữu = có; xứng = hay là xưng, xưng tán, khen ngợi. Ở đây có nghiã là xứng đáng được tôn xưng.

Tâm trí ưu thắng: ưu thắng = tốt hơn, cao hơn; có tâm trí vượt lên trên hạng người thường.

Niết-bàn: phiên âm chữ Pàli Nibbàna, nghiã gốc là ra khỏi rừng u tối, nghiã giáo lý là đã trừ diệt xong các phiền não, chứng được vô sanh (= chẳng còn phải tái sanh lại nữa). Tiếng Phạn là Nirvana. Có hai cõi Niết-bàn; khi còn sống gọi là Hữu dư Niết-bàn; đến khi lià đời thì vào cõi tịch diệt của Vô dư Niết-bàn.

Tam tạng Kinh điển: Luật tạng, Kinh tạngLuận tạng: Tam = ba; tạng = cái giỏ đựng sách; còn có nghiã là kho tàng (chứa Kinh sách); Kinh = nói gọn là, lời Đức Phật giảng về Chánh pháp; điển = sách làm chuẩn, ghi phép tắc. Tam tạng Kinh điển là kho tàng sách vở giáo lý, gồm có ba tạng là Luật tạng, nói về Giới luật; Kinh tạng, gồm các bộ Kinh dài ngắn; và Luận tạng, các bộ Luận giải thêm ý nghiã trong Kinh.

Uy nghi: oai nghi: Chữ nầy được dùng theo như một danh từ, hoặc theo như một tĩnh từ. Danh từ uy nghi chỉ cho bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi; còn gọi là bốn oai nghi. Tĩnh từ uy nghi có nghiã là đàng hoàng trong tư cách, trang nghiêm. Ở đây, chữ uy nghi được dùng theo cả hai nghiã.

Loạn động: xao động, chẳng yên. Nói về tâm lăng xăng, chạy tới chạy lui. Trái nghiã với nhứt tâm bất loạn.

Vô lậu: Vô = không; lậu = rỉ chảy. Chữ nầy được dùng theo nghiã bóng, chỉ các phiền não bên trong bộc lộ ra, như chất máu mủ rỉ chảy ngoài da. Vô lậu có nghiã là dứt sạch các phiền não. Trái nghiã với chữ hữu lậu, còn phiền não.

Thử pháp: Thử = đó, kia; Pháp = pháp tu. Chữ Pháp có ba nghiã: (1) nghiã thường, pháp pháp luật, luật lệmọi người phải tuân theo; (2) nghiã thứ nhứt trong Phật học là những pháp tu, lời dạy để tu hành. Thí dụ: Chánh pháp, Đạo pháp. (3) Nghiã thứ hai trong Phật học là tất cả sự vật mà ta có thể đặt tên để gọi. Thí dụ như căn nhà, ngọn núi, con người, thú vật, đều được Phật học gọi là những pháp. Ở đây, hai chữ thử pháp, nghiã là, pháp đó, tức là cái pháp tu được nói đến.

Trong bài Kệ, chữ Thử pháp, pháp đó, nói đến Tứ Thánh pháp, tức là bốn Chơn lý Nhiệm mầu, là Tứ Diệu Đế.

Tứ Thánh pháp: Tứ = bốn; Thánh = bực Thánh, bực tu hành đã đắc Đạo; pháp = pháp tu. Bốn pháp đó còn gọi là Tứ Diệu Đế, gồm có: (1) Khổ đế = Chơn lý về sự khổ; (2) Tập đế = Chơn lý về nguồn gốc gây ra sự khổ; (3) Diệt đế = Chơn lý về sự tận diệt được sự khổ; (4) Đạo đế = Chơn lý về con đường tu tập để tiêu diệt hết sự khổ. Tứ Diệu Đế được Đức Phật Thích-ca giảng rõ trong bản Kinh đầu tiên của Ngài là Kinh Chuyển Pháp luân (= Kinh chuyển bánh xe Pháp).

Cồ-đàm: phiên âm chữ Gotama, họ của Đức Phật Thích-ca.

Công đức thù thắng: được sự ích lợi to lớn nhứt.

Phiền não: các điều làm cho mình phải lo lắng, đau khổ. Có ba phiền não chánh: tham, sân (giận) và si (ngu tối), thường được gọi là tam độc, tức là ba món độc hại cần trừ bỏ.

Phục giải thoát: Phục = điều phục, bắt phải theo lịnh mình, tức là dẹp cho yên ổn. Giải thoát = cởi mở ra cho được tự do. Phục giải thoát là giai đoạn đầu của Giải thoát đạo, con đường đưa đến tự tại, tự mình làm chủ lấy mình, chẳng bị ràng buộc gì nữa. Phục, đây là điều phục các triền cái.

Triền cái: Triền = vây quấn xung quanh; cái = che úp lại. Triền cái, theo nghiã Phật học, là năm món che úp: (1) tham dục (= ham muốn), (2) sân khuể (= giận hờn), (3) giải đãi (= lười nhác), (4) trạo (hay điệu, vụt chạc, xao động) và hối (= hối tiếc), (5) nghi. Năm món nầy (thật ra có tới bảy món) làm chướng ngại cho việc tu đắc Sơ thiền (= thiền thứ nhứt).

Bỉ phần giải thoát: Bỉ = kia, đó; phần = một phần trong toàn thể; Bỉ phần giải thoát là đắc được một phần giải thoát, phần đó là Định, tâm bớt xao động, biết dừng lại.

Khinh an giải thoát: Khinh = nhẹ nhàng; An = yên ổn; Khinh an tình trạng của thân và tâm cảm thấy nhẹ nhàng và an ổn. (Trong bản dịch chữ Hán, ghi là giải thoát.)

Tri kiến: Tri = biết; kiến = thấy; Tri kiến là các điều mình thấy và biết rõ.

Đoạn giải thoát: Đoạn = cắt đứt thành từng đoạn; đoạn trừ. Đây là giai đoạn dẹp bỏ các kết sử, để được tự do.

Kết sử: còn gọi là kiết sử. Kết = tụ tập, kết hợp lại; Sử = sai khiến, sai sử. Kết sử là mười phiền não có khả năng sai khiến mình phải hành động hay nói năng theo hướng các phiền não đó; thí dụ kết sử giận sai khiến mình phải to tiếng, quát tháo, đánh đập, phá hủy. Có mười kết sử: (1) tham (2) sân (= giận), (3) si (= si mê), (4) mạn (= kiêu căng, phách lối), (5) nghi, (6) tà kiến (= ý nghĩ sái quấy), (7) giới cấm thủ (= các giới cấmnghi thức cúng tế của ngoại đạo, đầy vẻ mê tín), (8) tật (= ganh ghét, đố kỵ), (9) khan (= keo kiệt) và (10) hữu kết (= tham muốn được sống mãi; hữu = cuộc sống hiện nay).

Xuất thế gian: Xuất = ra khỏi; Thế gian = cõi sống ở trần gian nầy. Xuất thế có nghiã là tu hành để vượt qua được cuộc sống ở thế gian. Trái nghiã với chữ tại thế, thế tục.

Quả vị: Tu hành theo pháp thành công là chứng được Đạo (tiếng Pàli là Magga). Tu hành được viên mãn chứng đắc được bực Thánh, gọi là đắc quả vị (tiếng Pàli là Phala). Hai chữ Đạo quả có nghiã là, Đạo nguyên nhân khởi việc tu, Quả là kết quả việc tu đã xong. Vị là ngôi vị, cấp bực.

Trần lao: Trần = bụi bặm; lao = khổ nhọc; Trần lao chỉ các chỗ khổ sở, nhọc nhằn, dơ bẩn trong cuộc đờithế gian.

Thoái chuyển: Thoái = thối = lùi trở lại; chuyển = di động, chuyển động. Thoái chuyển là lùi sụt.

Bất chánh: Bất = chẳng; Chánh = đứng đắn, chơn chánh, ngay thẳng. Trái nghiã với chơn chánh.

Thiền: (tiếng Pàli là Jhàna) phương pháp tu hành để tâm được Định. Có bốn cấp Thiền: (1) Sơ thiền, (2) Nhị thiền, (3) Tam thiền, và (4) Tứ thiền. Có nơi còn thêm Ngũ thiền nữa.

Ấm = Uẩn = sự nhóm họp, kết tụ lại nhiều thứ. Vì tụ lại lắm thứ nên có sự lẫn lộn che mờ. Thường nói Năm Ấm hay Ngũ uẩn, để chỉ thân tâm nầy gồm có năm phần: (1) sắc ấm (phần vật chất), (2) thọ ấm (các cảm giác), (3) tưởng ấm (các tri giáctư tưởng, (4) hành ấm (các hành động của thân và của tâm) và (5) thức ấm (các sự hiểu biết).

Ở đây, nói ba ấm: giới ấm, định ấm và huệ ấm, chữ ấm được dùng với nghiã là tụ lại, nhóm họp.

Thành tựu: thành công, làm thành được.

Chánh ngữ: lời nói chơn chánh.

Chánh nghiệp: Nghiệp = chữ Pàli là Kamma, chữ Phạn là Karma, chỉ tất cả các hành động và lời nói đã làm hay nói, trong thời gian đã qua, tạo thành nghiệp, khiến cho mình nay được sung sướng hay khổ cực. Nghiệp sức mạnh dẫn dắt chúng sanh đi tái sanh trong vòng Luân hồi, sanh ra lớn lên rồi chết và phải sanh trở lại nữa, lẩn quẩn mãi chẳng dứt. Ở đây, chữ Chánh nghiệp có nghiã là nghiệp chơn chánh, sẽ dắt ta sanh theo đường lành.

Chánh mạng: có nghề nghiệp chơn chánh để nuôi mạng sống.

Chánh tinh tấn: sự cố gắng đúng đắn, chơn chánh.

Chánh niệm: Chánh = chơn chánh, đúng đắn; Niệm = một ý tưởng khởi lên ngay lúc nầy trong tâm; Chánh niệm ý tưởng khởi lên trong tâm, ngay trong lúc mình đang làm gì thì biết mình đang làm việc ấy. Người chánh niệm đang tụng Kinh, biết mình đang đọc tới câu nào, chữ nào; trái với người thất niệm, miệng đọc Kinh mà tâm đang nghĩ đến việc khác.

Chánh định: Định = dừng lại, trụ lại, chuyên vào một việc đang suy nghĩ. Chánh định tình trạng tâm an ổn của người đang dừng lại sự suy nghĩ.

Chánh kiến: ý kiến chơn chánh, tri kiến(= hiểu biết) chơn chánh. Trái nghiã với tà kiến (= ý tưởng sái quấy), với vọng tưởng (= ý nghĩ mơ vọng, chẳng đúng đắn, chẳng hợp với lúc đang suy nghĩ, lạc ra ngoài đề).

Chánh tư duy: Tư duy = suy nghĩ; Chánh tư duy là có sự suy nghĩ đứng đắn, chơn chánh, nghiã là theo đúng Chánh pháp.

Giới học: học về Giới luật tu hành theo đạo Phật. Có 10 giới của Sa-di (= người mới vào chùa tu), 250 giới của Tỳ-kheo (nam tu sĩ thọ Cụ túc giới [ = Giới đầy đủ ], chánh thức gia nhập Tăng đoàn), và 348 giới của Tỳ-kheo ni (nữ tu sĩ thọ Cụ túc giới). Cư sĩ tu tại nhà có 5 giới; Cư sĩ thọ Bồ-tát giới có 40 giới.

Tăng thượng: Tăng = tăng thêm; thượng = cao hơn. Tăng thượng giới là các giới luật cao hơn dành cho bực Thánh.

Giới tướng: Giới = điều răn cấm trong Đạo Phật; Tướng = hình tướng, hình thức. Thí dụ: giới sát sanh giới tướng là chẳng cầm dao giết hại chúng sanh.

Dục giới: Chữ Giới nầy khác nghiã với chữ Giới là điều răn cấm. Giới trong chữ Dục giới, có nghiã là cõi, lãnh vực; Dục ham muốn. Cõi dục giới là cõi chúng ta đang sống, còn nhiều ham muốn. Có ba cõi, hay là tam giới: dục giới, sắc giới (= cõi còn hình sắc, nhưng hình sắc tế nhị hơn ở cõi dục giới), và vô sắc giới (= cõi chẳng còn hình sắc, chỉ còn tư tưởng mà thôi)

Sắc giới: Cõi cao hơn cõi Dục giới, chẳng còn ham muốn, có hình sắc nhưng tế nhị hơn cõi Dục giới.

Vô sắc giới: Cõi cao nhứt trong ba cõi, chẳng có hình sắc, chỉ còn tư tưởng.

Tương tự trí: Tương tự = giống y với, chẳng khác. Tương tự trí là trí đã thông hiểuba mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ-đề (Các Phẩm sau của bộ Luận sẽ chỉ rõ 37 phẩm trợ đạo).

Đạo trí: Đạo = ở đây chữ Đạo có nghiã là con đường tu hành để đắc được bốn quả hàng Thanh văn (tức là Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán). Chữ Đạo nầy được dùng trong chữ đạo quả (đạo = magga, quả = phala). Như thế, Đạo trí là trí biết rõ và thực hành theo đúng đường lối tu hành hàng Thanh văn (Pàli: Sàvaka, tu sĩ nghe Kinh Phật dạy để tu.)

Độn căn: Độn = trì độn, chậm lụt; Căn = gốc, tức là vốn liếng hiểu biết. Người độn căn là người có căn cơ chậm lụt, thông minh kém cỏi.

Lợi căn: Lợi = sắc bén. Lợi căn nói đến người thông minh nhiều, hiểu nhanh các điều được chỉ dạy.

Khả học: Khả = có thể, nên phải. Điều khả học là điều phải nên học hỏi thêm.

Như thị học: Như thị = như thế, nghiã là, như thế nào thì thấy và hiểu đúng như thế ấy, theo đúng Chơn lý. Như thị học là cái học về Chơn lý.

Hữu họcVô học: Đây là nói về hai hạng người. Người hữu học là người còn nhiều điều phải học thêm; ý muốn nói chưa biết cách diệt trừ các phiền não. Còn người vô học, chẳng phải là người chẳng học gì ráo, vì đó là người thất học, chớ chẳng phải là người vô học. Vô học là học xong và thực hành đầy đủ việc diệt trừ các phiền não, nên chẳng điều gì phải học thêm nữa. Như thế, hữu học còn thấp hơn vô học.

Thanh tịnh:Thanh = trong, chẳng đục; Tịnh = sạch sẽ. Giới thanh tịnh giữ gìn giới luật chặt chẽ chẳng sơ hở, chẳng hề phạm giới. Tâm thanh tịnh là lòng trong sạch, chẳng vướng bận ý nghĩ xấu ác, chẳng có vọng tưởng. Huệ thanh tịnh là trí sáng suốt chẳng bị các tà kiến che mờ, khiến cho Trí huệ Bát-nhã chiếu sáng lên, vẹt được sự vô minh (= sự ngu tối).

Tẩy trừ: gột rửa cho sạch, dẹp bỏ chỗ dơ xấu.

Cấu nhiễm: Cấu = cặn cáu dơ bẩn; Nhiễm = dính dơ

Triền cấu: Xin xem lại chữ Triền cái.

Vô tri cấu: Vô tri = chẳng biết; Cấu cặn bã dơ dáy. Vô tri cấu tức là sự ngu dốt, thiếu sự hiểu biết.

Ác nghiệp: Nghiệp ác là vì các hành động xấu ác đã qua khiến phải sanh vào ba đường dữ (= tam ác đạo: điạ ngục, ngạ qủi [ = qủi đói] và súc sanh [ = thú vật].)

Ba điều lành: Nguyên văn chữ Hán là tam chủng Thiện, ba loại thiện. Ở đây có nghiã là việc tu tập theo Giải thoát đạo qua ba giai đoạn tạo thành ba điều lành; đúng ra đó là một điều lành trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu được gọi là Sơ thiện, khi giữ Giới được thanh tịnh; giai đoạn giữa được gọi là Trung thiện, khi tâm đắc được Định, ý nghĩ dừng lại, chẳng còn lăng xăng nữa và nhờ đó đến giai đoạn chót, gọi là Hậu thiện, Trí Huệ chiếu sáng lên dẹp xong các tà kiến, khiến cho tri kiến được thanh tịnh, lià xa các ham muốnđược giải thoát. Chữ Thiện, trong Hán văn, còn có nghiã là khéo léo, cho nên Kinh sách thường nói, lời giảng pháp của Đức Phật đều được sơ thiện, trung thiện và hậu thiện, có nghiã là Ngài khéo nói ở đoạn đầu, khéo nói ở đoạn giữa, và cũng khéo nói ở đoạn cuối.

Vô quá lạc: Vô = chẳng có; Quá = lỗi lầm, quá thất; Lạc = vui. Vô quá lạc là niềm vui trong lòng khi nhận thấybiết mình chẳng có lỗi lầm chi cả.

Tịch diệt lạc:Tịch = yên lặng, lặng lẽ; Diệt = tiêu mất. Tịch diệt lạc là niềm vui thấy thân tâm được an ổn, nhẹ nhàng, như đang trong cõi tịch diệt (= yên lặng) của Niết-bàn.

Chánh giác lạc: Chánh giác = sự giác ngộ chơn chánh, tức là hiểu và áp dụng đúng theo Chánh phápchứng đắc được. Chánh giác lạc là niệm vui được giác ngộ, hiểu theo nghiã biết rõ cả Chơn lý.

Trung Đạo: Trung = ở giữa. Đạo = con đường, đường lối. Trung Đạo con đường tu tậpĐức Phật đã vạch ra trong Bát Chánh Đạo, theo đó người tu hành tránh xa hai cực đoan: (1) tham lợi dưỡng, ham hưởng thú vui vật chất, và (2) khổ hạnh, tu hành ép xác cực khổ, tưởng rằng nhờ đó mà mau đắc quả. Hai cực đoan, lợi dưỡngkhổ hạnh, còn được gọi là nhị biên. [ Đừng lầm với Đạo Trung dung của Nho giáo].

Nhị biên: Nhị = hai; Biên = biên giới; Nhị biên thường được dịch là hai bên; còn ở giữa chính là con đường Trung Đạo, tránh được hai bên. Nhưng chữ nhị biên, hai bên còn có nghiã khác, chỉ cho hai tà kiến trái ngược hẳn nhau: thường kiến đoạn kiến. Chống lại vô thường kiến (tư tưởng Phật học cho rằng muôn sự đều biến đổi để đi đến hoại vong), thường kiếný kiến tin rằng chẳng có sự thay đổi, hễ đã là người rồi thì chết đi, lại sanh ra làm người nữa. Còn đoạn kiến thì cho rằng chết đi là hết, chẳng có Luân hồi sanh tử chi cả. Cả hai tà kiến đoạn kiếnthường kiến khi tu theo đạo Tu-đà-huờn thì dẹp được hết, cùng với thân kiến (= chấp thân nầy là Ta).

004. Suy gẫm về Phẩm 1: Nhân duyên của bộ Luận Giải thoát đạo nầy.

Sau khi đọc kỹ bản dịch Việt văn về Phẩm 1, tìm hiểu nghiã chữ khó và sắp xếp ý tưởng trình bày trong Phẩm thành một dàn bài chi tiết, ta bắt đầu suy gẫm về Phẩm 1 nầy.

Suy gẫm về ý nghiã của một bài văn là tìm hiểu hứng thú của bài văn đó. Suy gẫm về ý nghiã của một bản Kinh, hay một bản Luận, là tìm thấy, qua sự suy nghĩ của chính mình, nghiã lý đã được bản Kinh, Luận nói đến và rút ra bài học cho chính bản thân mình, để ứng dụng tu tập. Như thế, việc đọc Kinh, Luận chẳng giống với việc đọc các bài văn thơ, là ở chỗ tìm thấy ra ích lợi thiết thực trong việc tu tập. Biết rút ra được một vài điều có ích cho việc tu tập, đó là đang nếm pháp vị của bản Kinh hay bản Luận. Nhắc lại lời Đức Phật có nói, như nước biển chỉ có một mùi vị là mặn, Chánh pháp cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Như thế, việc đọc tụng một bản Kinh chưa đủ, việc học thuộc lòng một bản Kinh vẫn chưa đủ, việc tìm hiểu ý nghiã của bản Kinh cũng vẫn chưa đủ, còn phải biết cách tự mình suy gẫm để nếm pháp vị của bản Kinh, Luận đó nữa.

Suy gẫm về "Phẩm 1: Nhân duyên" nầy, xin nêu ra các ý nghĩ cá nhơn thô thiển sau đây:

1) Toàn thể bộ Luận đều nói đến sự giải thoát; Phẩm 1 đưa ra các lý do tại sao phải tìm đường giải thoát giải thoát bằng cách nào. Luận văn ghi rõ: "... muốn cởi được mọi ràng buộc, muốn thành tựu tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về sanh, già, chết, muốn vui giải thoát đạt tới Niết-bàn ..." ba điểm giải thoát, một gần và hai xa. Gần là cởi mọi ràng buộc; xa là có được tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về sống chết, đạt tới Niết-bàn. Ngay trong lúc nầy, tưởng chỉ nên chú trọng đến một điểm gần mà thôi, để chấm dứt mọi ràng buộc. Đến khi tu tậptiến bộ, tự nhiên sẽ thấy hai điểm xa tuy khó mà cũng có thể hi vọng thành tựu được ít nhiều.

2) Thắc mắc thứ nhứt: nào ai trói buộc tôi mà gọi là tôi bị ràng buộc?

Đáp: Sự ràng buộc nằm bên trong mỗi người. Khi giận, thì có hành động, lời nói như thế nào? Phải chăng giận run lên, đỏ mặt tiá tai, miệng quát tháo, tay đập phá. Đó là tâm giận đã sai khiến mình có thái độ, lời nói và hành động thiếu mất bình tỉnh như vậy. Tâm giận đó nằm bên trong lòng mình, được Kinh sách gọi là một kết sử, cái sự ràng buộc sai khiến mình có tư cách thiếu đúng đắn. Thử nhìn vào trong lòng mình, thật thà mà xét đến thái độ của chính mình, thì thấy ra chính mình đang bị ràng buộc bởi mười kết sử. Việc gần cần làm ngay là phải tìm cách, và áp dụng cách đó, để ngăn chặn các mối ràng buộc ấy. Đấy là đang tu tập theo Phục giải thoát được nói trong Luận văn. Phục, có nghiã là điều phục, là chính mình làm chủ lấy tâm mình, khiến cho cơn giận chóng qua đi mà chẳng gây ra tai hại cho kẻ khác và cho cả chính mình nữa (Khi giận, thân tâm chẳng vui sướng gì đâu!).

3) Thắc mắc thứ hai: Có người sanh ra trên nhung lụa, sống sung sướng cả đời, bị khổ gì đâu mà cần giải thoát?

Đáp: Bất luận là ai, giàu sang, quyền thế mấy đi nữa, cũng có lúc đau ốm, và chắc chắn rồi sẽ lo sợ khi phải chết. Đã có thân tâm nầy, tất chẳng ai tránh được sự lo lắng về bịnh tật, già yếu chết chóc. Phương tiện y khoa có thể trị lành bịnh, kéo dài cuộc sống được, nhưng sự lo lắng khi bịnh, lúc già, cảnh chết, chẳng có cách nào làm cho dứt hẳn được. Nhưng Kinh Luận Phật học dạy cách làm cho tâm chẳng quá lo lắng về ba cái khổ đó. Dạy cách nào? Bộ Luận Giải thoát đạo nầy sẽ lần lượt chỉ rõ cách khiến cho tâm trí sẵn sàng đối phó với cái khổ tinh thần đó: trên cái đau về thân xác, chẳng chồng thêm lên cái khổ tâm linh. Khi đã học đến làm thế nào để có được tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi, sẽ thấy bộ Luận nầy dạy ta cách thực tế nhứt để vượt qua được việc "đau và khổ" đó.

4) Thắc mắc thứ ba: đọc qua Phẩm 1, thấy nói đến năm phần giải thoát, sao chỉ thấy giảng rộng về Phục giải thoát thôi, còn các thứ giải thoát khác chẳng thấy nói đến?

Đáp: Dụng ý của tác giả là nói đến việc gần trước, rồi các Phẩm sau sẽ khai triển thêm về các giai đoạn giải thoát khác. Vả lại, khi đã điều phục được thân tâm nầy, diệt xong các kết sử, các phiền não khác, tự nhiên tâm trí sáng suốt hơn mà nhìn thấy rõ con đường giải thoát ở mức trọn vẹn như thế nào, và cần còn phải làm những gì thêm nữa, sau khi đã tu tập kỹ về Phục giải thoát.

5) Thắc mắc thứ tư: Vừa đọc qua mấy trang đầu trong Phẩm 1, tôi bị tràn ngập bởi các danh từ chuyên môn về Phật học, làm sao mà nhớ được chừng ấy chữ, chừng ấy ý, để ứng dụng tu hành?

Đáp: Các danh từ Phật học đã được giải thích một cách rất tóm tắt trong Phần Tìm hiểu. Nếu đi sâu vào chi tiết các danh từ nầy, chắc sự tràn ngập còn lên cao hơn nữa. Trong buổi đầu, xin tạm nhớ chừng ấy, hay ít hơn cũng được; miễn là mỗi khi thấy còn thắc mắc thì giở ra xem lại. Nhờ xem lại thường mà chẳng cần học thuộc lòng, cũng nhớ đúng được.

Một điều quan trọng xin nêu lên: trong khi học Kinh sách Phật, xin đừng để các danh từ làm mình rối trí thêm, vấn đề chánh là tìm hiểu được ý chánh nói trong đoạn đang đọc. Ý nghiã mới quan trọng, giúp mình biết cách ứng dụng, xin đừng bắt chước những người thường hay dùng các tiếng dao to búa lớn, nói nhiều tiếng Hán Việt cho ra vẻ ... tu hành! Ngâm nga một bài Kệ mà chẳng hiểu ý nghiã, phải chăng đó là một hình thức để ... khoe khoang mình biết nhiều về Kinh kệ, rằng mình đã tu ... cao! Nếu muốn học thuộc các bài Kệ, xin cứ học thuộc, sẽ được nhiều phước lạc, nhưng xin nhớ giữ lấy ý nghiã để mà tu cho có công đức: tu cho chính mình!

005. Thử tóm tắt những điều cần nên hiểu rõ biết chắc về Phẩm 1: Nhân duyên.

1. Giải thoát là gì? Giải thoát là cởi mở các ràng buộc từ bên trong.

2. Phục giải thoát điều phục thân tâm nầy, từ từ dẹp bớt các phiền não, các kết sử.

3. Con đường giải thoát tu hành theo ba môn học: Giới, Định Huệ. Nhờ giữ kỹ Giới thành kỷ luật nghiêm khắc để tuân theo khiến cho thân tâm được an lạc, rồi nhờ siêng tập Định bằng cách ngồi Thiền, tâm trí mới trở nên sáng suốt hơn trước, đó là Huệ.

Trí huệ sáng suốt giúp ta giác ngộ được Chánh pháp, để ứng dụng tu hành sớm đạt đến giải thoát.

Và xin nói thêm một điều thật quan trọng. Đó là Đạo Phật được tóm gọn trong mấy chữ nầy: Giác ngộGiải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33326)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6570)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11321)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30424)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30450)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8003)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12228)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12275)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11629)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12861)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34826)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52289)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10768)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10541)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10737)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10482)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13101)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16310)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21874)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9641)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7143)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12788)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12812)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16256)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16555)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13884)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16617)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12148)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13858)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14346)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9228)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11770)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11292)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16358)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14374)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16216)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12706)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12101)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11811)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11533)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14036)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12684)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15009)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11978)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13147)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14573)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20748)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10982)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20738)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14384)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20416)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17680)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14043)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31873)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12033)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant