LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán đời nhà Tống.
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Phần 2)
QUYỂN THỨ NHÌ
- THÁNH CHỦNG TÁNH: Chia làm ba loại: Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Phật Thừa. Nếu Phàm phu vọng tưởng thì sanh Thanh Văn Thừa Chủng Tánh, vì chấp trước tự tướng cộng tướng, nên gọi là do vọng tưởng sanh khởi Thanh Văn Thừa Chủng Tánh. Đại Huệ! Cũng theo vọng tưởng mê hoặc kia mà sanh khởi Duyên Giác Thừa Chủng Tánh, nghĩa là ngay nơi mê hoặc tự tướng cộng tướng kia chẳng tự chấp trước mà khởi Duyên Giác Thừa Chủng Tánh. Tại sao người trí cũng theo sự mê hoặc kia mà khởi Phật Thừa Chủng Tánh? Vì giác được tự tâm hiện lượng ngoài tánh phi tánh, chẳng có tướng vọng tưởng, nên sanh khởi Phật Thừa Chủng Tánh, ấy gọi là ngay nơi mê hoặc kia mà khởi Phật Thừa Chủng Tánh.
- Lại đối với mỗi mỗi sự và tánh, phàm phu khởi vọng tưởng thì sanh phàm phu chủng tánh. Cái nghĩa gọi là chủng tánh chẳng phải hữu sự, cũng chẳng phải vô sự Đại Huệ! Ngay sự mê hoặc chẳng vọng tưởng kia, những tâm, ý, ý thức, lỗi tập khí, pháp tự tánh, pháp chuyển biến v.v... của bậc Thánh đều gọi là NHƯ, cho nên nói NHƯ lìa tâm. Ta nói câu này là hiển thị lìa tưởng, tức là cái thuyết lìa tất cả tư tưởng.
LƯợC GIẢI :
Tư tưởng có hai thứ: Thế lưu bố tưởng và chấp trước tưởng. Phàm phu ở nơi tướng mê hoặc của Thế lưu bốt tưởng sanh khởi chấp trước tưởng, thì thành điên đảo tưởng. Bậc Thánh ngay nơi tướng mê hoặc của Thế lưu bố tưởng mà chẳng khởi chấp trước tưởng, nên không có điên đảo tưởng. Cho nên nói tướng mê hoặc là "THƯỜNG", cũng là "NHƯ", đều thuộc nghĩa này vậy.
Lược
giải hết
CHÁNH VĂN :
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Mê hoặc là hữu hay vô?
Phật bảo Đại Huệ :
- Pháp như huyễn chẳng có tướng chấp trước. Nếu mê hoặc có tướng chấp trước thì tánh chấp trước chẳng thể diệt. Pháp duyên khởi của ta thuyết, ắt đồng như pháp Nhân Duyên Sanh của ngoại đạo.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Nếu mê hoặc như huyễn thì phải làm nhân cho mê hoặc khác?
Phật bảo Đại Huệ :
- Chẳng phải nhân duyên mê hoặc nên chẳng có lỗi. Đại Huệ! Huyễn chẳng sanh lỗi, vì chẳng có vọng tưởng. Đại Huệ! Huyễn từ chỗ minh liễu sanh khởi, chẳng từ chỗ lỗi tập khí vọng tưởng của chính mình sanh khởi, cho nên chẳng có lỗi. Đại Huệ! Ấy là do tâm mê hoặc của phàm phu chấp trước, chẳng phải Thánh Hiền vậy.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Trong đó cũng chẳng thật.
Trong đó nếu chơn thật,
Mê hoặc tức chơn thật.
Xa lìa tất cả mê,
Nếu còn có tướng sanh,
Ấy cũng là mê hoặc,
Bất tịnh như bệnh nhặm.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Vì chấp trước đủ thứ tướng huyễn nên nói tất cả pháp như huyễn ư? Hoặc vì chấp trước đủ thứ tướng phi huyễn mà nói tất cả pháp như huyễn ư? Thế Tôn! Nếu như huyễn và phi huyễn có tánh khác biệt, ắt phải có tánh chẳng như huyễn. Tại sao? Vì mỗi mỗi sắc tướng chẳng có nhân. Thế Tôn! Nếu mỗi mỗi sắc tướng chẳng có nhân mà hiện tướng như huyễn, thì chẳng có đủ thứ tướng huyễn để chấp trước, cho có tánh tương tự là như huyễn.
Phật bảo Đại Huệ :
- Chẳng phải đủ thứ tướng huyễn chấp trước tương tự, nói tất cả pháp như huyễn. Vì tất cả pháp chẳng thật, chóng diệt như điện, ấy là như huyễn. Ví như điện chớp hiện trong sát na, mới hiện liền diệt. Tất cả tánh như thế, đều chẳng thuộc nơi hữu và vô, chỉ do tự tâm vọng tưởng chấp có tự tướng cộng tướng, nếu quán sát tất cả pháp vô tánh, thì chẳng phải sự hiện sắc tướng chấp trước của phàm phu.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Thuyết pháp tánh như huyễn,
Chẳng thật như điện chớp,
Cho nên nói như huyễn.
- Như Thế Tôn sở thuyết, tất cả tánh Vô Sanh như huyễn, vậy chẳng phải pháp sở thuyết của Thế Tôn trước sau trái nhau ư? Sao nói Vô Sanh tánh như huyễn?
Phật bảo Đại Huệ :
- Chẳng phải ta nói "Vô Sanh tánh như huyễn" có lỗi trước sau trái nhau. Tại sao nói sanh mà vô sanh? Là dùng để giác hiện lượng nơi tự tâm, nói hữu phi hữu, ngoài tánh phi tánh, là phương tiện để hiện pháp Vô Sanh, chẳng phải cái thuyết của ta có lỗi trước sau trái nhau, vì bác bỏ cái thuyết nhân sanh của ngoại đạo, nên Ta thuyết tất cả tánh vô sanh. Đại Huệ! Ngoại đạo si mê, muốn cho hữu và vô hữu đều thật, vì chẳng biết do tự tâm vọng tưởng chấp trước đủ thứ nhân duyên mà sanh.
- Đại Huệ! Ta dùng cái thuyết Vô Sanh để thuyết, vì phá cái chấp hữu và vô. Đại Huệ! Ta thuyết tánh âm thanh (thanh giáo), là vì đệ tử Ta tạo đủ thứ nghiệp mà nhiếp thọ sanh tử, và phá những người chấp vô kiến, đoạn kiến. Đại Huệ! Vì phàm phu đọa ác kiến hy vọng, chẳng biết tự tâm hiện lượng, vì khiến họ lìa các tướng tánh của tự tánh, nên thuyết tướng các pháp như huyễn; vì phá tướng chấp trước do nhân duyên sanh khởi của họ, nên nói tất cả pháp tướng tự tánh như mộng huyễn, là khiến lìa bả chấp trước ác kiến hy vọng tất cả pháp tự và tha, được thấy chỗ như thật, chẳng lập tà luận. Đại Huệ! Chỗ thấy tất cả pháp như thật, là siêu việt tự tâm hiện lượng.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Chấp tánh nhiếp sanh tử.
Quán sát pháp như huyễn,
Nơi tướng chẳng khởi vọng.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Và hình thân sai biệt,
Phàm phu vọng chấp trước,
Như voi mắc đầm lầy.
- Đại Huệ! Cái thuyết của ngoại đạo, nói mạng tức là thân, những lời nói như thế mới là Vô Ký luận. Đại Huệ! Các ngoại đạo ngu si, nơi nhân lập Vô Ký Luận, chứ chẳng phải sở thuyết của Ta. Đại Huệ! Sở thuyết của Ta lìa năng nhiếp, sở nhiếp, chẳng sanh vọng tưởng, chỉ để phá những kiến chấp của họ. Đại Huệ! Vì họ chấp trước năng nhiếp, sở nhiếp, chẳng biết tự tâm hiện lượng, nên phá sự chấp trước của họ. Đại Huệ! Như Lai Ứng Cúng Đảng Chánh Giác, dùng bốn thứ ký luận vì chúng sanh thuyết pháp. Đại Huệ! Ta thường thuyết Chỉ Ký Luận, là vì người căn chưa thuần thục mà thuyết, chẳng phải vì người căn đã thuần thục thuyết.
- Lại nữa, Đại Huệ! Tất cả pháp lìa nhân duyên sở tác, nghĩa là Vô Sanh, vì chẳng có kẻ tác, nên tất cả pháp Vô Sanh. Đại Huệ! Tại sao tất cả pháp lìa tự tánh? Vì lúc tự khởi giác quán, thấy tướng của tự tánh cộng tánh đều bất khả đắc, nên nói tất cả pháp Vô Sanh. Tại sao tất cả pháp chẳng thể đem lại, chẳng thể đem đi? Vì tự tướng cộng tướng bất khả đắc, nên muốn đem lại không có gì để đem lại, muốn đem đi không có gì để đem đi, nên nói tất cả pháp lìa đem lại đem đi. Đại Huệ! Tại sao tất cả pháp chẳng diệt? Vì chẳng có tánh tướng của tự tánh, thì tất cả pháp bất khả đắc, nên tất cả pháp chẳng diệt. Đại Huệ! Tại sao tất cả pháp vô thường? Vì tướng sanh khởi chẳng có tánh thường, nên nói tất cả pháp vô thường. Tại sao nói tất cả pháp thường? Vì tánh vô sanh chẳng có tướng sanh khởi, nên vô thường là thường, nên nói tất cả pháp thường.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Nhất hướng, phản cật vấn.
Phân biệt và chỉ luận,
Để đối trị ngoại đạo.
Thầy Số Luận (2)
Thắng Luận Hiển thị như thế này :
Pháp hữu và phi hữu,
Tất cả đều vô ký.
Nếu chánh giác phân biệt,
Tự tánh bất khả đắc.
Vì lìa nơi ngôn thuyết,
Nên nói lìa tự tánh.
1.-
Nhất Hướng : Khẳng định đáp.
2.-
Phản Cật Vấn : Hỏi ngược lại.
3.-
Phân biệt : Bất định đáp (đáp cả hai mặt).
4.-
Chỉ Luận : Tức là lương cửu, im lặng đáp.
(2) SỐ LUẬN : Do môn đồ của Ngoại Đạo Tóc Vàng kiến lập, nói SỐ là số lượng để đo lường trí huệ, từ số mà sanh khởi Luận, luận cũng hay sanh ra số, nên gọi là Số Luận. Người tạo ra Số Luận và người học Số Luận gọi là Số Luận Sư.
Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết Tứ quả, Tứ hướng của thừa Thanh Văn về tướng thông nhau và sai biệt. Nếu Đại Bồ Tát khéo biết tướng thông và sai biệt của Tứ quả, Tứ hướng, thì có nhiều phương tiện vì chúng sanh thuyết pháp, khiến chúng sanh thông đạt cứu cánh, như hai thứ tướng vô ngã và trừ sạch hai thứ phiền não và sở tri chướng, trải qua tướng chư Địa, đến cảnh giới cứu cánh bất tư nghì của Như Lai. Giống như hạt châu Ma Ni tùy sắc, khéo dùng tất cả pháp cảnh giới vô tận thân tài để nhiếp thọ, lợi ích tất cả chúng sanh.
Phật bảo Đại Huệ :
- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, nay Ta vì ngươi thuyết.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Lành thay Thế Tôn! Con xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ :
- Có ba thứ Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hoàn quả sai biệt. Thế nào là ba? Nghĩa là hạ, trung, thượng. Hạ đó, bảy đời sanh mới vào Niết Bàn; Trung đó, ba hoặc năm đời mới vào Niết Bàn; Thượng đó, ngay đời ấy liền vào Niết Bàn. Ba hạng này còn tam kết hạ, trung, thượng, ấy là : Thân kiến, nghi kiến và giới thủ kiến, đó là tam kế sai biệt, dần dần tiến lên thì đắc quả A La Hán.
THÂN KIếN có hai thứ: Là Câu Sanh (mới sanh đã sẵn có) và vọng tưởng, như duyên khởi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, là nương theo duyên khởi tự tánh thì các thứ vọng tưởng tự tánh chấp trước sanh khởi. Vì tướng vọng tưởng chẳng thật, phi hữu phi vô, cũng chẳng phải hữu và vô mà phàm phu vọng tưởng chấp trước mỗi mỗi tự tánh vọng tưởng, như con nai đang khát tưởng dương diệm là nước, đó là thân kiến vọng tưởng của Tu Đà Hoàn. Bậc này tu theo nhơn (người) vô ngã, nhiếp thọ pháp vô tánh, dứt trừ vô tri chấp trước lâu đời.
- Đại Huệ! Câu sanh là thân kiến của Tu Đà Hoàn, chấp có tự thân tha thân v.v... Vì có tướng bốn ấm Vô Sắc, có năng tạo và sở tạo lần lượt làm nhơn tướng mà sanh ra sắc. Vì đại chủng và sắc chẳng phải một, nên Tu Đà Hoàn quán pháp hữu và vô chẳng hiện thì thân kiến liền đoạn. Thân kiến đoạn thì tham dục chẳng sanh, ấy gọi là tướng thân kiến hết.
- Đại Huệ! TƯớNG NGHI là tướng thấy được các pháp thiện (tức là đắc nhơn vô ngã thì lý nghi dứt) và hai thứ vọng tưởng thân kiến ở trên đã dứt, thì pháp nghi chẳng sanh. Không ở nơi khác khởi kiến chấp nghi bậc Sư là tịnh hay là bất tịnh thì nghi Sư (Thầy) dứt. Đến đây, nghi lý, nghi pháp, nghi Sư đều hết, ấy gọi là tướng Nghi của Tu Đà Hoàn đoạn dứt.
- Đại Huệ! Thế nào là GIớI THỦ KIếN? Tu Đà Hoàn chẳng thủ giới, vì thấy rõ tướng khổ nơi vị lai thọ sanh nên chẳng thủ. Đại Huệ! Nói THỦ, là sự quyết định thực tập khổ hạnh tinh tấn của phàm phu, cầu sanh cảnh giới thú vui của cõi Trời. Bậc họ chẳng thủ, là hồi hướng chỗ tối thắng tự giác, vốn lìa vọng tưởng, tu pháp Vô Lậu, hành tướng phương tiện, dù chẳng thủ, nhưng cũng thọ trì giới chi (Giới phần Vô Lậu), ấy gọi là đoạn dứt tướng giới thủ của Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn đoạn dứt tam kết, tham si chẳng sanh, nếu Tu Đà Hoàn nghĩ như thế, nói "Ta chẳng thành tựu các kết này", ắt có hai lỗi: Đọa thân kiến và các kết chẳng dứt.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Phật nói nhiều tham dục, vậy họ đoạn dứt tham dục gì?
Phật bảo Đại Huệ :
- Họ đoạn dứt những trói buộc như yêu thích người nữ, tham trước đủ thứ phương tiện, tạo thân khẩu ác nghiệp, thọ sự vui trước mắt mà gieo khổ đời vị lai v.v... chẳng sanh tham dục kể trên. Tại sao? Vì họ đắc sự vui của Tam muội chánh thọ, nên họ đoạn dứt tham dục thế gian mà chẳng phải đoạn dứt sự ham Niết Bàn.
- Đại Huệ! Thế nào là tướng Tư Đà Hàm? Ấy là đốn chiếu soi sắc tướng vọng tưởng, chẳng sanh tướng thấy tướng sanh. Vì khéo thấy được tướng thiền hạnh, nền vãng lai thế gian này một lần, mong dứt sạch khổ để đắc Niết Bàn, nên gọi là Tư Đà Hàm.
- Đại Huệ! Thế nào là A Na Hàm? Nghĩa là đoạn dứt sự sanh kiến chấp lỗi lầm của kết tập (tập khí phiền não), chẳng sanh vọng tưởng sắc tướng nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, tánh phi tánh, gọi là A Na Hàm.
- Đại Huệ! Nói là A La Hán, là do sức sáng suốt giải thoát Tam muội của chư Thiền, dứt sạch tất cả khổ, phiền não của vọng tưởng tánh phi tánh, nên gọi là A La Hán.
Đại Huệ bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Phật thuyết ba hạng A La Hán, nói A La Hánh này là thuộc hạng nào? Thế Tôn! Vì đắc tịch tịnh của đạo Nhất thừa, nên Đại Bồ Tát phương tiện thị hiện A La Hán để giúp Phật giáo hóa.
Phật bảo Đại Huệ :
- Đắc tịch tịnh là đạo Nhất thừa của Thanh Văn, chẳng phải thừa khác. Thừa khác là hành hạnh Bồ Tát, do phương tiện khéo léo của bốn nguyện, nên ở nơi chúng sanh thị hiện thọ sanh và giúp Phật giáo hóa, cũng vì trang nghiêm quyến thuộc của Phật vậy. Đại Huệ! Ở nơi vọng tưởng thuyết đủ thứ pháp, nói đắc quả đắc thiền, thiền giả nhập thiền, thảy đều xa lìa, thị hiện chứng đắc tự tâm hiện lượng, đắc tướng quả, gọi là đắc quả. Lại nữa, Đại Huệ! Muốn siêu việt thiền của vô lượng Vô Sắc Giới, nên lìa tướng tự tâm hiện lượng. Đại Huệ! Nói chánh thọ, thọ tưởng, siêu việt tự tâm hiện lượng là chẳng đúng. Tại sao? Vì còn có tâm lượng vậy.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Vô sắc Tam Ma Đề.
Tất cả thọ, tưởng diệt,
Tâm lượng vốn không có (1).
Sơ quả và nhị quả,
Tam quả A Na Hàm.
Tứ quả A La Hán,
Đều dứt tâm mê hoặc.
Thiền giả duyên thiền định,
Đoạn chấp thấy Chơn Đế.
Dù vọng tưởng vô lượng,
Giác ngộ liền giải thoát.
- BỐN CÂU TRƯỚC CỦA BÀI KỆ là chỉ các thứ thiền phàm phu, ngoại đạo và Tiểu thừa, đã được giải ở trên.
- Đại Huệ! Thế nào là TƯớNG VọNG TƯởNG NHIếP THọ CHẤP TRƯớC KIếN LậP GIÁC? Là nói tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước, tướng vọng tưởng chẳng thật, như điạ, thủy, hỏa, phong; tứ đại chủng và tướng tông, nhơn, thí dụ, giác được chỗ kiến lập chẳng thật mà chấp trước kiến lập, ấy gọi là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước kiến lập giác.
- Nếu Đại Bồ Tát thành tựu hai thứ giác tướng này, đến tướng cứu cánh của tướng Nhơn pháp Vô Ngã thì khéo biết phương tiện Vô Sở Hữu giác, quán sát Hành Địa, đắc Sơ Địa, vào trăm Tam muội đắc sai biệt Tam muội, thị hiện trăm Phật và trăm Bồ Tát, biết các việc trong trăm kiếp quá khứ và vị lai, ánh sáng tự tâm chiếu soi trăm quốc độ, biết tướng từng bậc của chư Địa Bồ Tát. Đại nguyện thù thắng, thần lực tự tại, đến Pháp Vân Địa quán đảnh, sẽ chứng đắc Như Lai Tự Đắc Địa, khéo dùng tâm Thập Vô Tận Cú(1) để thành tựu cho chúng sanh, đủ thứ biến hóa quang minh trang nghiêm, đắc Tự Giác Thánh Lạc Tam Muội Chánh Thọ.
(1) THẬP VÔ TẬN CÚ : Cũng là mười thứ bất nhị của Như Lai. Chư Phật có mười thứ quyét định bất nhị : 1.- Tất cả chư Phật khéo thuyết lời thọ ký bất nhị. 2.- Hay tùy thuận tâm niệm chúng sanh, khiến họ thỏa nguyện bất nhị. 3.- Khéo biết tam thế tất cả Phật và Phật sở giáo hóa tất cả chúng sanh thể tánh bình đẳng bất nhị. 4.- Hay biết thế pháp và pháp tánh của chư Phật chẳng sai biệt, quyết định bất nhị. 5.- Khéo biết tam thế chư Phật đồng một thiện căn bất nhị. 6.- Hay thấu rõ tất cả pháp, diễ thuyết nghĩa lý bất nhị. 7.- Đầy đủ trí huệ của tam thế chư Phật bất nhị. 8.- Biết tất cả sát na nơi tam thế bất nhị.
9.- Biết tam thế tất cả cõi Phật vào trong mộy cõi bất nhị. 10.- Biết lời nói của tất cả tam thế chư Phật tức là lời nói của một Phật bất nhị.
- Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát nên khéo tạo sắc tứ đại chủng. Thế nào là Bồ Tát khéo tạo sắc tứ đại chủng? Đại Huệ! Đại Bồ Tát giác được chơn đế thì tứ đại chủng chẳng sanh, ở nơi tứ đại chẳng sanh mà quán sát như thế, quán sát rồi giác được ngằn mé danh tướng của vọng tưởng, ngằn mé của tự tâm hiện và ngoài tánh phi tánh, gọi là tâm hiện vọng tưởng ngằn mé. Quán tam giới kia, tánh lìa tạo sắc của tứ đại chủng, thông đạt tứ cú, lìa ngã, ngã sở, tự tướng như thật tướng và lìa trụ phần đoạn sanh tử, thành tựu tự tướng vô sanh.
- Đại Huệ! Tứ đại chủng kia làm sao sanh khởi tạo sắc? Là nói vọng tưởng thấm nhuần đại chủng, trước sanh nội, ngoại thủy giới, rồi cái năng sanh của vọng tưởng đại chủng, sanh nội, ngoại hỏa giới. Vọng tưởng đại chủng phiêu động, sanh nội, ngoại phong giới, vọng tưởng đại chủng ngăn cách, sanh nội, ngoại địa giới. Do chấp sắc và hư không chấp trước lý tà thì có ngũ uẩn tập hợp, sự tạo sắc của tứ đại chủng do đó sanh khởi.
- Đại Huệ! Nói THỨC ẤM là do ham thích đủ thứ sự thích cảnh giới của lục trần dính mắc chẳng bỏ, nên phải tương tục thọ sanh nơi các loài khác. Đại Huệ! Địa, thủy, hỏa, phong tứ đại chủng và sở tạo sắc pháp v.v... là do thức ấm duyên theo nghiệp mà sanh ra tứ đại, chẳng phải tứ đại tự làm duyên mà sanh ra thức ấm. Tại sao? Vì hình tưởng tự tánh, chỗ sở tác chỉ là phương tiện vô tánh, nên đại chủng chẳng sanh. Đại Huệ! Hình tướng tự tánh là do chỗ sở tác phương tiện hòa hợp mà sanh, chẳng phải vô hình. Cho nên tướng tứ đại tạo tác là vọng tưởng của ngoại đạo, chẳng phải thuyết của Ta.
- Lại nữa, Đại Huệ! Nay sẽ thuyết tướng tự tánh của các ấm. Thế nào là tướng tự tánh của các ấm? Nói NGŨ ẤM là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm phi sắc là thọ, tưởng, hành, thức. Đại Huệ! Nói SẮC ẤM, là tứ đại và tạo sắc mỗi mỗi có tướng riêng khác biệt. Đại Huệ! Bốn ấm vô sắc chẳng phải Vô Sắc mà có bốn số (thọ, tưởng, hành, thức) như hư không. Ví như hư không siêu việt tướng số mà lìa nơi số, chẳng có số lượng mà vọng tưởng nói là một hư không. Đại Huệ! Như thế, bốn ấm Vô Sắc cũng siêu việt tướng số mà lìa nơi số, lìa tánh phi tánh, lìa tứ cú. Nói TƯớNG Số là ngôn thuyết của phàm phu, chẳng phải Thánh Hiền vậy.
- Đại Huệ! Bậc Thánh như huyễn, mỗi mỗi sắc tướng lìa sự dựng lập, khác hay chẳng khác, cũng như thân bóng mộng của sĩ phu, lìa khác và chẳng khác. Đại Huệ! Nói Thánh Trí đồng như tướng vọng tưởng của ngũ ấm hiện, gọi là tướng tự tánh của các ấm, ngươi nên diệt trừ. Diệt rồi thuyết pháp tịch tịnh, dứt tất cả kiến chấp của các ngoại đạo nơi tất cả cõi Phật.
- Đại Huệ! Lúc nói tịch tịnh, là thấy pháp Vô Ngã tịnh, và vào Bất Động Địa ( Đệ Bát Địa ). Vào Bất Động Địa rồi, đắc vô lượng Tam muội tự tại và đắc ý sanh thân, đắc như huyễn Tam muội, thông đạt sự cứu cánh sáng tỏ tự tại, cứu giúp lợi ích tất cả chúng sanh, giống như đại địa nuôi dưỡng chúng sanh, Đại Bồ Tát phổ độ chúng sanh cũng như thế.
- Lại nữa, Đại Huệ! Các ngoại đạo có bốn thứ Niết Bàn. Thế nào là bốn? 1.- Tánh của tự tánh phi tánh Niết Bàn. 2.- Mỗi mỗi tướng của tự tánh phi tánh Niết Bàn. 3. Tướng giác của tự tánh phi tánh Niết Bàn. 4.- Tương tục lưu chú của tự tướng cộng tướng nơi ngũ ấm đoạn dứt Niết Bàn. Ấy gọi là bốn thứ Niết Bàn của các ngoại đạo, chẳng phải pháp sở thuyết của Ta. Đại Huệ! Pháp của Ta thuyết là các thức của vọng tưởng diệt, gọi là Niết Bàn.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn há chẳng kiến lập thức thứ tám ư?
Phật đáp :
- Kiến lập.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Nếu kiến lập thì tại sao chỉ lìa ý thức (Thức thứ sáu) mà chẳng lìa thức thứ bảy?
Phật bảo Đại Huệ :
- Vì lìa sự phan duyên của thức thứ sáu thì thức thứ bảy chẳng sanh. Ý thức là phân biệt cảnh giới phần đoạn của Tiền ngũ thức, đang lúc phân biệt, liền sanh khởi chấp trước, thì những tập khí nuôi dưỡng nơi tạng thức, khởi hiện hành huân tập chủng tử, do thức thứ bảy truyền vào ý thức, tức là cùng trong thức thứ tám vậy. Chấp trước ngã và ngã sở thì nhân duyên tư duy sanh khởi, thân tướng chẳng hoại, tạng thức do ý thức phan duyên thì cảnh giới tự tâm hiện, tâm chấp trước liền sanh. Các thức lần lượt làm nhân với nhau, cũng như làn sóng biển, do ngọn gió của cảnh giới tự tâm hiện thổi, làn sóng các thức hoặc sanh hoặc diệt cũng như thế. Cho nên, ý thức diệt thì thức thứ bảy theo đó cũng diệt.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết rằng :
Tướng năng tác, sở tác.
Tánh Niết Bàn ta thuyết,
Lìa vọng tưởng nhĩ diệm.
Do thức phan duyên nhau,
Thành đủ thứ thân hình.
Gốc nhân chính là tâm,
Nơi nương tựa của thức.
Như dòng nước đã cạn,
Thì làn sóng chẳng khởi.
Vậy ý thức diệt rồi,
Thì các thức chẳng sanh.