Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

21. Phẩm Thứ Hai Mươi Mốt: Thần lực của Như Lai

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11252)
21. Phẩm Thứ Hai Mươi Mốt: Thần lực của Như Lai

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Hai Mươi Mốt: Thần lực của Như Lai

Hôm nay chúng ta đi sang phẩm 21 tức là Phẩm Thần Lực của Như Lai. Phẩm này thuộc về Bản môn.

Thần lực của Như Lai là cái khả năng thực hiện của Bụt. Cố nhiên thần lực của Như Lai dựa trên căn bản thọ lượng của Như Lai. Trong một phẩm trước ta đã thấy Như Lai không thể nào được đặt trong khung không gianthời gian, Như Lai vượt ra khỏi không gianthời gianNhư Lai không phải là một, mà Như Lai cũng không phải là chỉ ở đây và lúc này. Như Lai ở khắp chốn, khắp thời và có hằng hà sa số phân thânVì vậy nếu căn cứ trên nền tảng của cái thọ lượng đó, thì thần lực của Như Lai cũng rất rộng lớn, cũng bất khả tư nghị.

Điều cần nhớ khi đọc phẩm thứ 21 này là chúng ta hãy thực tập cùng chia xẻ thọ lượngthần lực của Như Lai. Hôm trước chúng ta có nói đến một chiếc lá mùa Thu. Nhìn vào tờ lá mùa Thu một cách sâu sắc, ta thấy nó không sanh cũng không diệt, tất cả mọi hiện tượng đều có mặt trong tờ lá, và tờ lá cũng có mặt ở trong tất cả. Thấy được thọ lượng của tờ lá, là ta có thể thấy được thần lực của tờ lá, tức là khả năng của một chiếc lá. Chúng ta cũng vậy, nếu nhìn sâu vào trong con người của chúng ta, chúng ta sẽ khám phá ra được tự tánh bất sanh bất diệt của chúng taChúng ta cũng không thể nào đặt chúng ta vào trong khung khổ thời giankhông gian được. Chúng ta cũng không phải là một, chúng ta không phải chỉ được giới hạn ở trong khuôn khổ ở đây và bây giờ. Vì vậychúng ta có thể chia xẻ với Bụt cái thọ lượng của Bụt, chia xẻ với Bụt cái thần lực của Bụt. Ở trong Bản môn, vượt khung thời giankhông gian, chúng ta sẽ tiếp xúc được với cái thọ lượng vô lượng của Bụt, với cái thần lực vô lượng của Bụt. Khi tiếp xúc được với thọ lượngthần lực của Bụt, thì ta tiếp xúc được với cái thọ lượngthần lực của chính chúng taChúng ta thường có mặc cảm rằng mình nhỏ bé như một hạt cát. Đối với thời gian vô lượngkhông gian vô biên thì chúng ta chỉ là một hạt cát, không có nghĩa gì cả. Nhưng đó là đứng về phương diện Tích môn mà nói. Đứng về phương diện Bản môn thì chúng ta cũng như Bụt, chúng ta cũng siêu thoát thời giankhông gian như Bụt. 

Trong đoạn thứ hai, trang 463, chúng ta thấy Bụt thực hiện một phép thần thông lớn, Ngài lè lưỡi ra, và lưỡi của Ngài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới, rồi từ các lỗ chân lông trong người của Ngài phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, và những tia sáng đó cho ta thấy được tất cả các cõi nước trong mười phương. Trong các cõi nước đó, chúng ta thấy các vị Bụt đang ngồi trên các tòa sư tử, dưới những gốc cây bồ đề, rất trang nghiêmđẹp đẽ. Mỗi đức Bụt cũng lè lưỡi ra và từ các lỗ chân lông cũng phóng ra những tia sáng tương tựHình tượng này là hình tượng mà ta đã thấy ở trong kinh Hoa Nghiêm, nó là hình tượng của trùng trùng duyên khởi.

Không có gì diễn tả đúng được tầm mức cái khả năng, cái thần lực của Như Lai, bằng hình ảnh trùng trùng duyên khởiChúng ta nên biết rằng trong đạo Bụt, ánh sáng hay những tia hào quangtuệ giác, là sự giác ngộ. Mỗi khi chúng ta có ánh sáng đó mà đem nó soi chiếu chung quanh ta và trong ta, thì chúng ta thấy được nhiều cái mà những người thất niệm không thể thấy được. Có ánh sáng của chánh niệm, của giác ngộ mà soi vào một chiếc lá, một cọng cỏ hay một đám mây thì chúng ta thấy tất cả những cái mầu nhiệm nằm trong đó, và cái thế giới của Hoa Nghiêm được bày mở ra cho chúng ta một cách rất mầu nhiệmThế giới của Hoa Nghiêmthế giới của ánh sáng. Nên nhớ trong kinh điển Đại Thừa cũng như Nguyên Thủy, ánh sáng tượng trưng cho sự giác ngộ. Nếu ai đó được ánh sáng chánh niệm phóng nhằm thì người đó sẽ sáng ra và sẽ được giác ngộ. Có ánh sáng đó thì chiếu tới đâu thì ta thấy rõ ràng tới đó. Bụt là ánh sáng. Chúng ta có câu hát Chánh niệm là Bụt, soi sáng xa gầnChúng ta cũng có nguồn ánh sáng đó trong tự tâm, hễ dùng ánh sáng đó mà soi thì sẽ thấy. Cũng như dùng một cây đèn pin vậy, nhưng ở đây là một thứ đèn pin rất mạnh. Đó là hình ảnh của ánh sáng phát ra từ tất cả các lỗ chân lông của Bụt.

Chúng ta cũng có chánh niệmchúng ta cũng có thể phát ra ánh sáng đó được, nghĩa là nhờ có chánh niệm mà mình có thể làm được phép lạ. Ví dụ, có một sư cô đang sống trong chánh niệm, đang an trú trong tam muội, sư cô đang đi ra đi vào, đứng lên ngồi xuống, xắt cà rốt, rửa nồi niêu trong tam muội ấy. Trong thời gian này, sư cô tỏa chiếu hào quang chánh niệm. Những người khác nhìn thấy, tiếp xúc được với chánh niệm đó thì được ảnh hưởng, và họ cũng phát ra chánh niệm trong tâm họ và tự nhiên họ cũng sẽ đi đứng nằm ngồi trong chánh niệm như sư cô. Ánh sáng chánh niệm của sư cô phóng ra, chạm vào mình và nhờ đó mình cũng có chánh niệm theo. Ở đây cũng vậy, một vị Bụt là gì? một vị Bụt là ánh sáng chánh niệm, và ánh sáng đó chiếu tới đâu thì nó làm hiện rõ ra sự thật mầu nhiệm tới đó, và những sự vật được ánh sáng chiếu tới cũng phản chiếu ánh sáng lại vào những sự vật khác.

Ngày xưa thầy Pháp Tạng đời Đường đã giảng kinh Hoa Nghiêm cho hoàng hậu Vũ Tắc Thiên. Thầy cho làm một cái tháp có tám mặt, mỗi mặt là một tấm kính rất lớn, rồi thầy mời hoàng hậu cầm một cây đèn nến thắp sáng và đi vào tháp cùng thầy. Vào trong tháp, hoàng hậu thấy hình của cây đèn phản chiếu trong tấm kính trước mặt. Quay lại thì cũng thấy cây đèn đó phản chiếu từ tấm kính ở sau lưng. Rồi không những chỉ có hình cây đèn trong mỗi tấm kính, mà có vô số hình cây đèn khác, tại vì hình của cây đèn trong tấm kính này được phản chiếu sang tấm kính kia, và tấm kính kia nó chiếu lại tấm kính này, cứ vậy mà phản chiếu vô lượng vô biênVì vậy mà trong một tấm kính không phải chỉ thấy một cây đèn nến, mà thấy vô lượng vô số cây đèn nến. Đây là hình ảnh mà ta thấy trong phẩm thứ 21 này.

Như vậy khi một người có chánh niệm thì từ những lỗ chân lông của người đó phát ra ánh sáng. Những luồng ánh sáng đó chạm phải những người chung quanh dù không có chánh niệm những người này cũng phát khởi chánh niệm, và đến lượt những người đó lại phát ra ánh sáng. Cứ như vậy, và mọi người trong chúng ta được hưởng cái lợi lạc của ánh sáng chánh niệm. Trong chúng mà có một người có chánh niệm là có lợi cho tất cả đại chúng. Người đó là người phát ra ánh sáng, và nếu ánh sáng đó chạm vào người thứ hai thì người này cũng sáng lên, và cứ tiếp tục đến người thứ ba, thứ tư v.v... Ánh sáng này cũng sẽ phản chiếu lại cho người thứ nhất, cho nên người này cũng sẽ được lợi lạc thêm. Đó là hình ảnh trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêmkinh Pháp Hoa đã sử dụng trở lại.

Ở đây chúng ta còn một hình ảnh rất đẹp nữa là hình ảnh Quảng Trường Thiệt Tướng, tức là cái lưỡi lớn và dài, một trong 32 tướng tốt của đức Bụt. Đây là một hình ảnh của văn hóa Ấn độ, không phải chỉ có trong đạo Bụt, mà còn có trong những truyền thống có trước đạo Bụt. Những người nói sự thật, thường có lưỡi rất lớn. Lưỡi của Bụt chỉ nói sự thật, chỉ nói đệ nhất nghĩa đế thôi, cho nên Bụt có lưỡi lớn đến độ có thể che được cả tam thiên đại thiên thế giới. Những điều nói ở đây là những điều rất vi diệu. Người chỉ ru rú trong cuộc đời sống say, chết mộng, thì không thể nào thấy được những mầu nhiệm đó. Những cái mà Bụt thấy, mà những vị giác ngộ thấy, chúng mầu nhiệm quá, nói ra, người khác không tin được, cho nên Bụt đã phải lặp lại câu: Tôi đang nói cho quí vị nghe sự thật, và chỉ có sự thật thôi. Cái ý đó được diễn tả bằng một hình ảnh rất tuyệt vời, đó là cái lưỡi của Bụt. Cái lưỡi này lớn vô cùng, bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới. Những người có tướng lỗ tai đặc biệt là những người có thể nghe được các âm thanh mà những người khác không nghe được. Cũng tương tự như vậy, người có cái lưỡi đặc biệt thì có thể nói lên được những sự thật mà người khác không thể nói lên.

Tôi muốn để dành cho đại chúng có cái pháp lạc được tự tiếp tục đọc phẩm 21 để khám phá thêm về Thần lực của Như Lai. Bây giờ chúng ta đi sang phẩm thứ 22.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17990)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11730)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10172)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15347)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12110)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12007)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12416)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11188)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12558)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13530)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11959)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11643)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12771)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12617)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12905)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11169)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13055)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10315)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15319)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12222)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14275)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19708)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24613)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10694)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant