Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Tám: Đốn Tiệm

24 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9162)
Phẩm Thứ Tám: Đốn Tiệm


KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543

 

Phẩm Thứ Tám: Đốn Tiệm

 

DỊCH

Khi ấy Tổ ở chùa Bảo Lâm tại Tào Khê, còn Thần Tú đại sư ở chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Bấy giờ hai tông thạnh hóa, người đều gọi là Nam Năng Bắc Tú nên có hai tông Nam Bắc, chia ra đốn tiệm, mà người học không biết tông thú. Tổ bảo chúng rằng:

Pháp vốn một tông, người có Nam Bắc, pháp tức là một thứ, thấy có mau và chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp khôngđốn tiệm, người có lợi căn, độn căn, nên gọi là đốn tiệm.

Nhưng đồ đệ của ngài Thần Tú thường chê Tổ sư Nam tông là không biết một chữ, có cái gì hay. Thần Tú nói rằng:

Kia (Tổ Huệ Năng) được Trí vô sư, thâm ngộ được pháp thượng thừa, tôi không bằng vậy. Vả lại Thầy tôi là Ngũ Tổ, chính Ngài truyền y pháp, há lại suông ư? Tôi hận không thể đi xa để thân cận, luống thọ ân Quốc vương, vậy những người các ông không nên kẹt ở đây, nên đến Tào Khê tham hỏi.

Một hôm Ngài sai đệ tửChí Thành rằng:

Ông thông minh nhiều trí, nên vì tôi mà đến Tào Khê nghe pháp, nếu nghe được điều gì, hết lòng ghi lấy, trở về nói cho tôi nghe.

Chí Thành vâng mệnh đến Tào Khê, theo chúng tham thỉnh, không nói từ đâu đến. Khi ấy Lục Tổ bảo chúng rằng:

Ngày nay có người trộm pháp đang ẩn trong hội này.

Chí Thành liền ra lễ bái và thưa đầy đủ việc của ông. Tổ bảo:

Ông từ Ngọc Tuyền lại nên là kẻ do thám.

Chí Thành đáp: Không phải.

Tổ hỏi: Sao được không phải?

Chí Thành thưa:

Chưa nói là phải, đã thưa rồi là không phải.

Tổ bảo: Thầy ông dùng cái gì chỉ dạy chúng?

Chí Thành thưa:

Thường chỉ dạy Đại chúng trụ tâm quán tịnh, thường ngồi chẳng nằm.

Tổ bảo:

Trụ tâm quán tịnh là bệnh chớ không phải thiền, thường ngồi là câu chấp nơi thân, đối với lý có lợi ích gì.

Hãy lắng nghe bài kệ của tôi đây:

Khi sống ngồi không nằm,
Khi chết nằm không ngồi,
Vốn là đầu xương thúi,
Vì sao lập công khóa.

(Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa,
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa.)

Chí Thành lại lễ bái thưa rằng:

Đệ tử ở chỗ Đại sư Thần Tú, học đạo chín năm mà không được khế ngộ. Ngày nay nghe Hòa thượng nói một bài kệ liền khế ngộ được Bản tâm. Sanh tử là việc lớn, đệ tử xin Hòa thượng vì lòng đại bi chỉ dạy thêm.

Tổ bảo:

Tôi nghe Thầy ông dạy học nhân pháp giới định tuệ, chưa biết Thầy ông nói giới định tuệ, hành tướng như thế nào, ông vì tôi nói xem.

Chí Thành thưa:

Đại sư Thần Tú nói: “Các điều ác chớ làm gọi là giới, các điều thiện vâng làm gọi là tuệ, tự tịnh ý mình gọi là định.” Ngài Thần Tú nói như thế, chưa biết Hòa thượng lấy pháp gì dạy người?

Tổ bảo:

Nếu tôi nói có pháp cho người tức là nói dối ông, chỉ tùy phương mở trói, giả danh là tam-muội. Như Thầy ông nói giới định tuệ thật là không thể nghĩ bàn, nhưng chỗ thấy giới định tuệ của tôi lại khác.

Chí Thành thưa:

Giới định tuệ chỉ là một thứ vì sao lại có khác?

Tổ bảo:

Thầy ông nói giới định tuệ là tiếp người Đại thừa, còn tôi nói giới định tuệ là tiếp người Tối thượng thừa, ngộ hiểu chẳng đồng, thấy có mau và chậm; ông nghe tôi nói cùng với kia đồng hay chăng? Tôi nói pháp chẳng lìa Tự tánh, lìa thể nói pháp thì gọi là nói tướng, Tự tánh thường mê, phải biết tất cả muôn pháp đều từ nơi Tự tánh khởi dụng, ấy là pháp Chân giới, Chân định, Chân tuệ, hãy lắng nghe tôi nói kệ đây:

Đất tâm không lỗi Tự tánh giới,
Đất tâm không si Tự tánh tuệ,
Đất tâm không loạn Tự tánh định.
Chẳng tăng chẳng giảm tự kim cang,
Thân đến thân đi vốn tam-muội.

(Tâm địa vô phi Tự tánh giới,
Tâm địa vô si Tự tánh tuệ,
Tâm địa vô loạn Tự tánh định,
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bản tam muội.)

Chí Thành nghe kệ rồi hối tạ, mới trình một bài kệ:

Năm uẩn thân huyễn hóa,
Huyễn làm sao cứu kính,
Xoay lại tìm Chân như,
Pháp trở thành bất tịnh.

(Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu kính,
Hồi thú Chân như,
Pháp hoàn bất tịnh.)

Tổ liền ấn khả đó, lại bảo Chí Thành rằng:

Giới định tuệ của Thầy ông là khuyên dạy người tiểu căn tiểu trí, còn giới định tuệ của tôi là dạy người đại căn đại trí. Nếu ngộ được Tự tánh cũng chẳng lập Bồ-đề, Niết-bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, không một pháp có thể được mới hay dựng lập muôn pháp. Nếu hiểu được ý này cũng gọi là thân Phật, cũng gọi là Bồ-đề Niết-bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người thấy tánh lập cũng được, không lập cũng được, đi lại tự do, không bị trệ ngại, ứng dụng tùy việc làm, nói năng tùy đáp, khắp hiện Hóa thân, chẳng lìa Tự tánh, liền được tự tại thần thông, du hí tam-muội, ấy gọi là kiến tánh.

Chí Thành lại thưa:

Thế nào là nghĩa chẳng lập?

Tổ bảo:

Tự tánh không lỗi, không si, không loạn, niệm niệm Bát-nhã quán chiếu, thường lìa Pháp tướng, tự do tự tại, dọc ngang trọn được, có gì nên lập? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ, đốn tu cũng không thứ lớp, cho nên chẳng lập tất cả pháp. Các pháp là lặng lẽ, có thứ lớp gì?

Chí Thành liền lễ bái, nguyện làm người hầu hạ, sớm chiều không lười mỏi. Chí Thành là người Thái Hòa Cát Châu.

] Tăng Chí Triệt, quê ở Giang Tây, họ Trương tên Hành Xương, thuở nhỏ là một hiệp khách. Từ khi chia ra hai tông Nam Bắc, hai vị Tông chủ tuy quên bỉ ngã, nhưng đồ chúng tranh nhau khởi yêu ghét. Khi ấy đệ tử của Bắc tông tự lập ngài Thần Tú làm Tổ thứ sáu mà kỵ (vì) Lục Tổ được truyền y, mọi người đều nghe nên mới dạy Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Tổ tâm thông dự biết việc ấy nên liền để mười lượng vàng ở dưới tòa. Khi ấy ban đêm Hành Xương vào trong thất toan muốn hại Tổ, Tổ đưa cổ cho chém, Hành Xương liền vung kiếm chặt ba lần đều không thương tổn. Tổ bảo:

Kiếm chánh chẳng tà, kiếm tà chẳng chánh, chỉ nợ vàng của ông, không nợ mạng của ông.

Hành Xương hoảng hốt té xỉu, giây lâu mới tỉnh, cầu xin sám hối, liền nguyện xuất gia. Tổ liền cho vàng bảo:

Ông hãy đi, e đồ chúng trở lại hại ông, một ngày khác ông có thể đổi hình dángtrở lại, tôi sẽ nhận ông.

Hành Xương vâng lời dạy, giữa đêm trốn đi, sau theo Tăng xuất gia, thọ giới Cụ túc, tinh cần tu hành. Một hôm ông nhớ lại lời Tổ, từ xa đến lễ ra mắt Tổ. Tổ bảo:

Tôi nhớ ông đã lâu, sao ông đến muộn vậy?

Hành Xương thưa:

Trước nhờ ơn Hòa thượng xá tội, ngày nay tuy xuất gia khổ hạnh, trọn khó đền đáp ân đức, đâu mong được truyền pháp độ sanh ư? Đệ tử thường xem kinh Niết-bàn, chưa hiểu được nghĩa thường và vô thường, cúi xin Hòa thượng từ bi lược vì giải nói.

Tổ bảo:

Vô thường tức là Phật tánh, hữu thường tức là tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy.

Hành Xương thưa rằng:

Hòa thượng nói pháp rất trái với văn kinh.

Tổ bảo:

Ta được truyền tâm ấn của Phật, đâu dám trái với kinh Phật.

Hành Xương thưa:

Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa thượng lại nói là vô thường, các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ-đề đều là vô thườngHòa thượng lại nói là thường, đây tức trái nhau, khiến cho học nhân càng thêm nghi ngờ.

Tổ bảo:

Kinh Niết-bàn thuở xưa tôi có nghe Ni Vô Tận Tạng đọc một lần liền vì bà giảng nói, không có một chữ, một nghĩa nào không hiệp với văn kinh, cho đến vì ông nói cũng trọn không có hai thuyết.

Hành Xương thưa:

Học nhân thức lượng cạn tối, cúi mong Hòa thượng lượng theo mà từ bi khai thị.

Tổ bảo:

Ông biết chăng, Phật tánh nếu thường lại nói gì là các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có một người phát tâm Bồ-đề, nên tôi nói là vô thường, mà chính là đạo Chân thường của Phật nói. Lại tất cả pháp nếu là vô thường, tức mỗi vật đều có Tự tánh, dung thọ sanh tử mà tánh Chân thường có chỗ bất biến, nên tôi nói thường chính là Phật nói nghĩa chân vô thường. Phật xưa vì phàm phu ngoại đạo chấp tà thường, còn các hàng Nhị thừa thường mà chấp là vô thường, cọng thành tám thứ điên đảo, nên trong giáo lý liễu nghĩa kinh Niết-bàn phá thiên kiến kia mà hiển bày Chân thường, Chân lạc, Chân ngã, Chân tịnh. Nay ông y theo lời nóitrái với nghĩa, dùng đoạn diệt vô thường và xác định cái tử thường mà lầm hiểu lời nói mầu nhiệm viên diệu tối hậu của Phật, dù có xem một ngàn biến kinh thì có lợi ích gì?

Hành Xương bỗng nhiên đại ngộ, liền nói kệ rằng:

Vì giữ tâm vô thường,
Phật nói có tánh thường,
Không biết được phương tiện,
Như ao xuân mò gạch.
Nay tôi chẳng thi công,
Phật tánh hiện tiền,
Không phải thầy trao cho,
Tôi cũng không sở đắc.

(Nhân thủ vô thường tâm,
Phật thuyết hữu thường tánh,
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền,
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.)

Tổ bảo:

Nay ông mới triệt vậy, nên đặt tên ông là Chí Triệt.

Chí Triệt lễ tạ mà lui.

] Có một chú bé tên là Thần Hội ở Tương Dương, con nhà họ Cao, mười ba tuổi, từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ.

Tổ hỏi:

Tri thức từ xa nhọc nhằn đến lại đem được cái gốc đến chăng? Nếu có gốc thì nên biết được Ông chủ, thử nói xem?

Thần Hội thưa:

Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.

Tổ bảo: Ông Sa-di này đâu nên nói như thế.

Thần Hội liền hỏi:

Hòa thượng tọa thiền lại thấy hay chẳng thấy?

Tổ cầm gậy đánh ba gậy hỏi:

Tôi đánh ông đau hay chẳng đau?

Thần Hội đáp: Cũng đau cũng không đau.

Tổ bảo: Tôi cũng thấy cũng chẳng thấy.

Thần Hội hỏi:

Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?

Tổ bảo:

Chỗ thấy của tôi thường thấy những lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy phải quấy tốt xấu của người khác, ấy do cũng thấy mà cũng chẳng thấy. Ông nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu ông chẳng đau thì đồng như cây đá, nếu ông đau thì đồng với phàm phu, tức khởi sân hận, ông về trước thấy và chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt, ông Tự tánh lại chẳng thấy mà dám đùa với người.

Thần Hội liền lễ bái sám hối. Tổ lại nói:

Tâm ông nếu mê chẳng thấy thì hỏi Thiện tri thức để tìm đường, còn tâm ông nếu ngộ tức tự thấy tánh, y pháp tu hành, ông tự mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy thì tự biết há thay cái mê cho ông, nếu ông tự thấy cũng chẳng thay được cái mê cho ta, sao chẳng tự biết tự thấy mà hỏi ta thấy cùng chẳng thấy.

Thần Hội lại lễ hơn một trăm lạy, xin sám hối tội lỗi rồi siêng năng hầu hạ bên cạnh không rời.

Một hôm Tổ bảo chúng:

Tôi có một vật không đầu, không đuôi, không danh, không tự, không lưng, không mặt, các người lại biết chăng?

Thần Hội bước ra nói rằng:

Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.

Tổ bảo:

Tôi đã nói với ông không danh không tự, ông liền gọi là bản nguyên, là Phật tánh, ông nhằm đi lấy cỏ tranh che đầu, cũng chỉ thành cái hạng tông đồ của tri giải.

Sau khi Tổ diệt độ, ngài Thần Hội vào Kinh Lạc, hoằng truyền pháp đốn giáo Tào Khê, viết quyển Hiển Tông Ký, thạnh hành ở đời, gọi là Thiền sư Hà Trạch.

Tổ thấy các tông nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác, phần nhiều nhóm ở dưới tòa của Tổ, Ngài thương xót mới bảo rằng:

Người học đạo, tất cả niệm thiện, niệm ác nên phải dẹp sạch, không tên có thể gọi, ấy gọi là Tự tánh, tánh không hai ấy gọi là Thật tánh, trên Thật tánh dựng lập tất cả giáo môn, ngay lời nói liền phải tự thấy.

Các người nghe nói, thảy đều làm lễ, xin thờ Ngài làm thầy.

 

GIẢNG 1

CHÍ THÀNH

Khi ấy Tổ ở chùa Bảo Lâm tại Tào Khê, còn Thần Tú đại sư ở chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Bấy giờ hai tông thạnh hóa, người đều gọi là Nam Năng Bắc Tú nên có hai tông Nam Bắc, chia ra đốn tiệm, mà người học không biết tông thú. Tổ bảo chúng rằng:

Pháp vốn một tông, người có Nam Bắc, pháp tức là một thứ, thấy có mau và chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp khôngđốn tiệm, người có lợi căn, độn căn, nên gọi là đốn tiệm.

Đến phẩm thứ tám nói về đốn và tiệm.

Về tông thú tức về sự tu hành không có chia ra Nam Bắc, đốn tiệm. Đốn là nhanh, tiệm là chậm, là thứ lớp. Sở dĩ có thứ lớp là tại sao? Vì căn cơ của người, người thông minh nghe ít hiểu nhiều, còn người tối tăm nghe nhiều hiểu ít; nghe nhiều hiểu ít phải tu từ từ, phải từ thấp đi lên lần lần. Còn người thông minh nghe liền hiểu, hiểu liền ứng dụng được thì đâu có từ từ, vì thế nói căn cơ lợi và độn; lợi căn tu nhanh, tiến nhanh nên gọi là đốn, còn độn căn thì chậm nên gọi là tiệm, đốn tiệm chia ra là tại căn cơ người, chớ không phải tại pháp chia ra như thế.

Nhưng đồ đệ của ngài Thần Tú thường chê Tổ sư Nam tông là không biết một chữ, có cái gì hay.

Dưới ngài Thần Tú có người đệ tử lớn là Phổ Tịch, kiêu ngạo, muốn làm Tổ thứ bảy, thành ra muốn đưa thầy ông lên làm Tổ thứ sáu, nhưng thầy ông không được truyền y bát nên ông bực tức nói Tổ Huệ Năng dốt không biết chữ, không có gì hay, chỉ thầy ông mới là giỏi là hay v.v.. xứng đáng làm Tổ, do đó mới sanh ra sự tranh chấp. Không phải người lớn tranh chấp, đó là đồ đệ ở dưới tranh chấp.

Thần Tú nói rằng:

Kia (Tổ Huệ Năng) được Trí vô sư, thâm ngộ được pháp thượng thừa, tôi không bằng vậy. Vả lại Thầy tôi là Ngũ Tổ, chính Ngài truyền y pháp, há lại suông ư?

Ngài Thần Tú thật rất tốt, chính Ngài nhận rằng Tổ Huệ Năng được Trí vô sư, còn Ngài học nhiều nhưng là Trí hữu sư, Tổ Huệ Năng đã thâm ngộ được pháp thượng thừa còn Ngài không bằng; và chính Ngũ Tổ truyền y bát cho Tổ Huệ Năng thì đâu phải là chuyện nói suông! Như vậy ông thầy thì hiểu, nhưng học trò vì ngô ngã nên sanh việc chia rẽ khinh chê.

Tôi hận không thể đi xa để thân cận, luống thọ ân Quốc vương, vậy những người các ông không nên kẹt ở đây, - tức là không nên ngưng trệ ở đây - nên đến Tào Khê tham hỏi.

Như vậy thì quá tốt, sánh với hiện nay có ai bì nổi ngài Thần Tú không? Có ai dám bảo học trò đi nơi khác học không? Hay là bảo: “Thôi ở đây tôi dạy cho đủ rồi đi đâu làm chi, bỏ thầy đi là bất hiếu v.v...”

Một hôm Ngài sai đệ tửChí Thành rằng:

Ông thông minh nhiều trí, nên vì tôi mà đến Tào Khê nghe pháp, nếu nghe được điều gì, hết lòng ghi lấy, trở về nói cho tôi nghe.

Chí Thành vâng mệnh đến Tào Khê, theo chúng tham thỉnh, không nói từ đâu đến.

Chí Thành đến Tào Khê nhưng không có trình, không xin chi cả, cứ theo chúng vào học.

Khi ấy Lục Tổ bảo chúng rằng:

Ngày nay có người trộm pháp đang ẩn trong hội này.

Chí Thành liền ra lễ bái và thưa đầy đủ việc của ông. Tổ bảo:

Ông từ Ngọc Tuyền lại nên là kẻ do thám.

Chí Thành đáp: Không phải.

Tổ hỏi: Sao được không phải?

Chí Thành thưa:

Chưa nói là phải, đã thưa rồi là không phải.

Tức là Ngài nói rõ đến mà làm thinh là ăn trộm, còn đã thưa trình rồi thì không còn là ăn trộm nữa.

Tổ bảo: Thầy ông dùng cái gì chỉ dạy chúng?

Chí Thành thưa:

Thường chỉ dạy đại chúng trụ tâm quán tịnh, thường ngồi chẳng nằm.

Trụ tâm quán tịnh là trụ tâm lại và nhìn thấy chỗ lặng lẽ đó và thường ngồi thiền chớ không có nằm.

Tổ bảo:

Trụ tâm quán tịnh là bệnh chớ không phải thiền, thường ngồi là câu chấp nơi thân, đối với lý có lợi ích gì.

Hãy lắng nghe bài kệ của tôi đây:

Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa,
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa.

Khi sống ngồi thiền mãi không nằm, khi chết nằm luôn không ngồi, có ai chết rồi mà ngồi dậy không? Như vậy vốn là một khúc xương thúi, vì sao mà lập công khóa? Nằm và ngồi chẳng qua là xương sống dựng đứng lên hay nằm ngã xuống, dựng lên gọi là ngồi, ngã xuống gọi là nằm. Như vậy nằm ngồi vốn là một khúc xương thúi, là cái hình thức, đâu có gì quan trọng mà lấy đó làm công phu tu hành. Tu hành là điểm nào nữa kia, chớ không phải hình thức đó, nhưng hiện nay thấy ai ngồi được nhiều thì thiên hạ phục lắm. Thế nên ở đây tuy dạy tu thiền nhưng ngồi tối đa là hai giờ rồi xả, chớ không ngồi hoài vì chúng ta tu cũng phải có chút ít công khóa chừng mực, nhưng thật ra chủ tâm là làm sao ngộ được đạo, chớ không phải lấy việc ngồi làm sở trường.

Chí Thành lại lễ bái thưa rằng:

Đệ tử ở chỗ Đại sư Thần Tú, học đạo chín năm mà không được khế ngộ. Ngày nay nghe Hòa thượng nói một bài kệ liền khế ngộ được Bản tâm. Sanh tử là việc lớn, đệ tử xin Hòa thượng vì lòng đại bi chỉ dạy thêm.

Tổ bảo:

Tôi nghe Thầy ông dạy học nhân pháp giới định tuệ, chưa biết Thầy ông nói giới định tuệ, hành tướng như thế nào, ông vì tôi nói xem.

Chí Thành thưa:

Đại sư Thần Tú nói: “Các điều ác chớ làm gọi là giới, các điều thiện vâng làm gọi là tuệ, tự tịnh ý mình gọi là định.” Ngài Thần Tú nói như thế, chưa biết Hòa thượng lấy pháp gì dạy người?

Hiện nay thường trên lá phái bằng chữ nho, chúng ta thấy có mấy câu: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.” Đây là bốn câu kệ của Phật Ca-diếp, đó là lời dạy chung của chư Phật. Ngài Thần Tú cũng dạy chư ác mạc tác là giới, chúng thiện phụng hành là tuệ, vì có trí tuệ mới biết điều thiện mà làm, tự tịnh kỳ ý là định.

Tổ bảo:

Nếu tôi nói có pháp cho người tức là nói dối ông, chỉ tùy phương mở trói, giả danh là tam-muội. Như Thầy ông nói giới định tuệ thật là không thể nghĩ bàn, nhưng chỗ thấy giới định tuệ của tôi lại khác.

Chí Thành thưa:

Giới định tuệ chỉ là một thứ vì sao lại có khác?

Tổ bảo:

Thầy ông nói giới định tuệ là tiếp người Đại thừa, còn tôi nói giới định tuệ là tiếp người Tối thượng thừa, ngộ hiểu chẳng đồng, thấy có mau và chậm; ông nghe tôi nói cùng với kia đồng hay chăng? Tôi nói pháp chẳng lìa Tự tánh, lìa thể nói pháp thì gọi là nói tướng, Tự tánh thường mê, phải biết tất cả muôn pháp đều từ nơi Tự tánh khởi dụng, ấy là pháp Chân giới, Chân định, Chân tuệ, hãy lắng nghe tôi nói kệ đây:

Tâm địa vô phi Tự tánh giới,
Tâm địa vô si Tự tánh tuệ,
Tâm địa vô loạn Tự tánh định,
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bản tam-muội.

Ngay nơi đất tâm mình mà không có lỗi gọi là Tự tánh giới; đất tâm không si tức là ngay nơi Bản tâm mình mà hằng giác hằng liễu gọi là Tự tánh tuệ, chớ không phải vâng làm những điều lành mới là tuệ; ngay nơi tâm mình không loạn gọi là Tự tánh định. Ba điểm này để tâm nghiệm xét thì thấy hai bên dạy khác nhau. Không làm các điều ác gọi là giới; làm các điều ác là thân làm, khẩu làm, thân và khẩu là tướng bên ngoài, ngoài thân hành động, miệng nói năng mới gọi là phạm, thân khẩu ngừa tránh làm những điều ác gọi là giới. Còn Tổ bảo: Ngay nơi tâm mình không dấy niệm ác đó là giới, vừa dấy niệm ác thì đã phạm giới; thành ra một bên ở ngoài ngọn, một bên đi tận gốc. Thế nên nói kia là tướng, đây là tánh, rõ ràng như vậy. Vâng làm các điều lành là tuệ, nói và làm những điều lành tức là hành động, cũng là tướng bên ngoài; lựa điều lành mà làm thì tuệ đó là tuệ của suy tư, của phán xét, tuệ của cái động bên ngoài; còn ngay trong tâm mình hằng liễu liễu thường tri thì tuệ đó là sẵn ở trong tâm, đó mới thật là tuệ. Chúng ta thấy rõ một bên thuộc về tướng, một bên thuộc về tánh. Tướng là ở ngoài hành động, tánh là đi thẳng vào cội nguồn của tâm. Định của ngài Thần Tú dạy là trụ tâm quán tịnh để định, như vậy lấy cái lặng lẽ làm cảnh để quán, định đó có cảnh bị quán và người hay quán; còn ngay nơi tâm mình không dấy loạn đó là định thì định đó không còn năng sở nữa. Như vậy chúng ta thấy Lục Tổ chỉ thẳng chỗ tột cùng, nên nói kia tiếp người Đại thừa, đây là tiếp người Tối thượng thừa. Tóm lại, người Đại thừa làm những điều lành, nói những điều lành, cứu giúp người, ví như nói bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v... nhưng vẫn còn là ở hình tướng, còn Tối thượng thừa là bất cứ điều gì cũng không lìa tâm tánh, ngay nơi tâm tánhứng dụng tu, ngay nơi tâm tánh mà sống. Hiểu như thế mới không lầm lẫn, mới hiểu tại sao Ngài nói Ngài là Tối thượng thừa, bên kia là Đại thừa, tức là thấp hơn Ngài một bậc. Thấp tại chỗ nào? Vì bên kia ở ngoài tướng, còn đây là ngay trong tâm tánh, pháp Tối thượng thừapháp chỉ thẳng tâm tánh.

“Chẳng tăng chẳng giảm tự kim cang”, Tự thể kim cang của mình là không thêm không bớt, vừa thêm vừa bớt tức là có sai biệt, có biến động, còn thể đó như như, không tăng không giảm, gọi là kim cang. “Thân đến thân đi vốn tam-muội”, nếu nơi tâm mình hằng không thêm, không bớt, không động, không tịnh thì dù thân này tới lui qua lại nhưng vẫn ở trong chánh định, chánh định đó không xuất không nhập. Trái lại nếu ngồi kềm mới được định, buông ra thì loạn, đó là có xuất có nhập, mà có xuất có nhập tức không phải là đại định.

Chí Thành nghe kệ rồi hối tạ, mới trình một bài kệ:

Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu kính,
Hồi thú Chân như,
Pháp hoàn bất tịnh.

Như vậy nghe Tổ nói, Chí Thành liền tỉnh ngộ. Nơi ngài Thần Tú, Chí Thành thấy Ngài dạy về hình thức, bắt ngồi nhiều, bắt làm lành và giữ không làm ác, tức là căn cứ trên thân ngũ uẩn, nhưng thân ngũ uẩn là thân huyễn hóa, nếu y cứ vào thân huyễn hóa tu thì làm sao được cứu kính? Nếu xoay lại để tìm Chân như thì pháp trở thành bất tịnh, quán để cầu tịnh thì tịnh đó mất rồi! Tóm lại, hai câu trên là căn cứ vào thân tướng mà tu nên chưa phải là cứu kính; hai câu sau là tìm Chân như, mà quán tịnh thì trở thành bất tịnh. Như vậy là Chí Thành hiểu được ý của Lục Tổ, nên Lục Tổ liền ấn khả.

Tổ liền ấn khả đó, lại bảo Chí Thành rằng:

Giới định tuệ của Thầy ông là khuyên dạy người tiểu căn tiểu trí, còn giới định tuệ của tôi là dạy người đại căn đại trí. Nếu ngộ được Tự tánh cũng chẳng lập Bồ-đề, Niết-bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, không một pháp có thể được mới hay dựng lập muôn pháp. Nếu hiểu được ý này cũng gọi là thân Phật, cũng gọi là Bồ-đề Niết-bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người thấy tánh lập cũng được, không lập cũng được, đi lại tự do, không bị trệ ngại, ứng dụng tùy việc làm, nói năng tùy đáp, khắp hiện Hóa thân, chẳng lìa Tự tánh, liền được tự tại thần thông, du hí tam-muội, ấy gọi là kiến tánh.

Chí Thành lại thưa: Thế nào là nghĩa chẳng lập?

Tổ bảo:

Tự tánh không lỗi, không si, không loạn, niệm niệm Bát-nhã quán chiếu, thường lìa pháp tướng, tự do tự tại, dọc ngang trọn được, có gì nên lập? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ, đốn tu cũng không thứ lớp, cho nên chẳng lập tất cả pháp. Các pháp là lặng lẽ, có thứ lớp gì?

Chúng ta thấy Tổ dạy thật là thấu đáo. Tôi nhắc lại để thấy điểm Tổ nói. Tổ bảo: Nếu ngộ Tự tánh mà tu thì không lập Bồ-đề, không lập Niết-bàn, không lập Chân như, giải thoát gì cả. Tại sao không lập? Vì ngay thể đó là như vậy, nó không có tên, bởi không tên nên không lập, nhưng vì tùy duyên muốn cho người ta hiểu nên lập Bồ-đề, Chân như, Niết-bàn, vì thế lập cũng được, không lập cũng được. Còn người học đạo không hiểu cứ chấp theo danh từ Bồ-đề, Chân như, Niết-bàn, nghe Tổ nói cái đó không tên thì giật mình. Hiểu thì lập cũng được, không lập cũng được, còn không hiểu, quen lập rồi nay nghe nói chỗ đó không có Chân như, Niết-bàn, liền hoảng hốt sợ tu đến đó không có gì cả. Nhưng không ngờ khi thấy được cái thật thì cái thật đó nguyên là không tên, sở dĩ có tên là tùy duyên lập để cho người ta hiểu thôi, chớ đâu phải tên đó là thật! Cũng như mỗi người mang một cái tên, tên đó là do bản chất của mình mà thành hay là cái tên giả đặt bên ngoài? Tên là cái giả đặt bên ngoài, còn bản chất là cái của mình. Khi nói đến ai nếu không nói tên, người ta thấy như khó hiểu, nên tên chỉ là giả danh để giản trạch người A khác với người B, người C... Nghĩa là mỗi người khác nhau trên danh tự, chớ sự thật bản chất của mỗi người tự là như thế, không có tên. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy chủ yếu của Tổ dạy là đi thẳng vào tâm tánh, người ngộ được tâm tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, còn không ngộ tâm tánh nghe nói tu không cần Bồ-đề thì hoảng sợ, vì không cần Bồ-đề thì tu làm chi, chớ không ngờ đến được chỗ đó rồi thì tên không còn quan trọng nữa. Người đến được chỗ đó thì đi lại tự do không bị trệ ngại, ứng dụng thì tùy tác, nếu ai hỏi gì liền đối đáp không cần phải suy nghĩ; nếu nhận được rồi thì không nói sai, còn chúng ta hiện nay vì không thấy, vì chưa nhận được, dù suy nghĩ để nói cho đúng nhưng rồi cũng sai. Tỉ dụ người ta hỏi “Tự tánh như thế nào”, chúng ta suy nghĩ một lúc rồi nói “chắc Tự tánh như thế này, như thế kia v.v...” nhưng càng nói thì càng sai vì chúng ta chưa thấy, còn người thấy rồi nói cách nào cũng được, có khi nạt, có khi hét, có khi đánh, làm thế nào cũng đúng cả. Hiểu như thế chúng ta mới thấy sự tự tại của chư Tổ.

Trở về Tự tánh rồi thì Tự tánh là Bát-nhã, là không si, không loạn, không có lỗi, không kẹt với các tướng nên nói thường lìa pháp tướng, đạt đến đó thì tung hoành tự do. Như vậy là chỗ tu, không có gì là thứ lớp, ngay nơi đó là thể, không có dấy niệm xấu đó là giới, hằng sáng suốt đó là tuệ, hằng yên lặng đó là định, chớ không có thêm cái gì bên ngoài cả. Người tu thường nói tu phải đủ giới định tuệ, nếu chúng ta hướng về Tự tánh thì Tự tánh đầy đủ giới định tuệ có thiếu sót gì đâu. Nhưng đa số người cứ lập giới tướng, cho đó là tối thượng mà quên ngay Bản tánh! Nếu người nào giữ suốt ngày không dấy niệm ác thì người đó có giữ giới chưa? Những giới tướng Phật chế ra đối với người đó là dư rồi! Nếu người đó hằng ngày, hằng giờ hằng sáng suốt thì đó là tuệ; còn tâm họ hằng lặng lẽ, đi, đứng, nằm, ngồi vẫn lặng lẽ thì đó là định, đâu cần phải ngồi mới là định. Hiểu như thế chúng ta mới thấy giới định tuệ sẵn nơi Bản tâm, người biết tu hướng về đó sống thì lúc nào cũng có đủ giới định tuệ. Trái lại người không biết cứ chạy theo giới tướng, mà chạy theo giới tướng nếu có giới nào giữ không được thì sầu khổ. Tỉ dụ như giới gần nhất là Tỳ-kheo không rời ba y, giả sử có người cần đi đâu gấp, không kịp mang theo đủ ba lá y thì sầu khổphạm giới mất y. Nếu hướng về giới tánh mà sống, chúng ta thấy nhẹ nhàng thảnh thơi, nghĩa là luôn luôn giữ tâm không dấy niệm ác, đó là giữ giới, như vậy ai tu cũng được, xuất gia tại gia đều tu được cả, vì thế Tổ bảo rằng tại gia, xuất gia đều tu được không phải đợi xuất gia mới tu.

Chí Thành liền lễ bái, nguyện làm người hầu hạ, sớm chiều không lười mỏi. Chí Thành là người Thái Hòa Cát Châu.

Nghe được những lời dạy này, ngài Chí Thành ngộ, nên đảnh lễ Tổ một lần nữa và nguyện làm người hầu hạ sớm chiều không lười mỏi. Lúc này Ngài quên về trình lại thầy tức ngài Thần Tú.

 

GIẢNG 2

CHÍ TRIỆT

Thiền sư Chí Triệt:

Tăng Chí Triệt, quê ở Giang Tây, họ Trương tên Hành Xương, thuở nhỏ là một hiệp khách. Từ khi chia ra hai tông Nam Bắc, hai vị Tông chủ tuy quên bỉ ngã, nhưng đồ chúng tranh nhau khởi yêu ghét. Khi ấy đệ tử của Bắc tông tự lập ngài Thần Tú làm Tổ thứ sáu mà kỵ (vì) Lục Tổ được truyền y, mọi người đều nghe nên mới dạy Hành Xương đến ám sát Lục Tổ.

Người tu mà cũng còn có những việc làm như vậy, giữ giới mà đi giết Tổ thì thế nào? Thế nên nhiều khi ái pháp quá cũng thành bệnh nặng, tức là mình quí thầy của mình, muốn đưa thầy mình lên, nhưng có ông thầy khác hơn thầy mình thì không bằng lòng, muốn giết đi nên trở thành người ác, đó là tâm bệnh của người tu.

Tổ tâm thông dự biết việc ấy nên liền để mười lượng vàng ở dưới tòa. Khi ấy ban đêm Hành Xương vào trong thất toan muốn hại Tổ, Tổ đưa cổ cho chém, Hành Xương liền vung kiếm chặt ba lần đều không thương tổn. Tổ bảo:

Kiếm chánh chẳng tà, kiếm tà chẳng chánh, chỉ nợ vàng của ông, không nợ mạng của ông.

Hành Xương hoảng hốt té xỉu, giây lâu mới tỉnh, cầu xin sám hối, liền nguyện xuất gia. Tổ liền cho vàng bảo:

Ông hãy đi, e đồ chúng trở lại hại ông, một ngày khác ông có thể đổi hình dángtrở lại, tôi sẽ nhận ông.

Thật lòng đại từ đại bi không thể kể xiết! Nếu có ai hại chúng ta như vậy, mình không đánh đuổi đi là may rồi. Đây Tổ còn đem cho vàng, bảo đi đi, khi nào đổi hình dáng trở lại Tổ độ cho. Sở dĩ Tổ từ bi như thế là do Ngài thấy được nguyên nhân, quả báo từ đời trước nợ nần với nhau thế nào, Ngài thấy rõ không lầm nên dặn khi khác trở lại.

Hành Xương vâng lời dạy, giữa đêm trốn đi, sau theo Tăng xuất gia, thọ giới Cụ túc, tinh cần tu hành. Một hôm ông nhớ lại lời Tổ, từ xa đến lễ ra mắt Tổ. Tổ bảo:

Tôi nhớ ông đã lâu, sao ông đến muộn vậy?

Lời này nếu không phải là Thánh thì không nói được! Người hại mình khi trở lại cho mình độ thì lễ năm lần mười lượt mình mới tiếp, chớ đâu có nói: Tôi trông ông đã lâu, sao ông đến muộn vậy? Thật là lòng đại bi không có giới hạn, dù người hại mình nhưng vẫn nhớ độ họ không quên, đó mới thật là đại bi.

Hành Xương thưa:

Trước nhờ ơn Hòa thượng xá tội, ngày nay tuy xuất gia khổ hạnh, trọn khó đền đáp ân đức, đâu mong được truyền pháp độ sanh ư? Đệ tử thường xem kinh Niết-bàn, chưa hiểu được nghĩa thường và vô thường, cúi xin Hòa thượng từ bi lược vì giải nói.

Tổ bảo:

Vô thường tức là Phật tánh, hữu thường tức là tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy.

Tổ nói như thế, ai mà không nghi? Kinh Niết-bàn nói: Niết-bàn là thường, các pháp là vô thường, nhưng nay hỏi thì Tổ bảo Phật tánhvô thường, còn tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác là thường.

Hành Xương thưa rằng:

Hòa thượng nói pháp rất trái với văn kinh.

Tổ bảo:

Ta được truyền tâm ấn của Phật, đâu dám trái với kinh Phật.

Hành Xương thưa:

Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa thượng lại nói là vô thường, các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ-đề đều là vô thườngHòa thượng lại nói là thường, đây tức trái nhau, khiến cho học nhân càng thêm nghi ngờ.

Tổ bảo:

Kinh Niết-bàn thuở xưa tôi có nghe Ni Vô Tận Tạng đọc một lần liền vì bà giảng nói, không có một chữ, một nghĩa nào không hiệp với văn kinh, cho đến vì ông nói cũng trọn không có hai thuyết.

Hành Xương thưa:

Học nhân thức lượng cạn tối, cúi mong Hòa thượng lượng theo mà từ bi khai thị.

Tổ bảo:

Ông biết chăng, Phật tánh nếu thường lại nói gì là các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có một người phát tâm Bồ-đề, nên tôi nói là vô thường, mà chính là đạo Chân thường của Phật nói.

Nếu Phật tánh thường thì làm sao nói các pháp từ Tự tánh sanh, Tự tánh tức là Phật tánh, nếu thường thì đâu sanh các pháp. Nhưng nó sanh các pháp tức là vô thường, cho đến cùng kiếp không có ai phát Bồ-đề tâm, có phát Bồ-đề tâm tức là vô thường, nghĩa là có ác rồi mới phát tâm lành, nếu luôn lành thì có phát tâm lành chi nữa. Chúng ta thường nói: tôi phát Bồ-đề tâm để học đạo, là vì trước không có nay mới có, như thế là vô thường chớ không phải thường. Nhưng Tổ lại bảo tiếp: “Tôi nói vô thường mà chính là đạo Chân thường của Phật nói!” Chúng ta nên hiểu rằng Phật nói Phật tánhthườngy cứ trên thể mà nói, còn Tổ nói vô thườngy cứ trên dụng mà nói. Hành Xương nghe trong kinh Niết-bàn nói thì quen chấp theo thể, nay ngược lại Tổ nói cái dụng cho ông thấy. Nói thể nói dụng là phương tiện, đâu có thật, đây là cái khéo của Tổ.

Lại tất cả pháp nếu là vô thường, tức mỗi vật đều có Tự tánh, dung thọ sanh tử mà tánh Chân thường có chỗ bất biến, nên tôi nói thường chính là Phật nói nghĩa chân vô thường.

Ngài nói tất cả pháp nếu vô thường thì mỗi vật đều có Tự tánh, tuy là thọ nhận sanh tử, có biến hoại nhưng trong đó vẫn có một cái thường, vì có tánh thường mới hiện ra được. Chúng ta có thể tạm ví dụ như làm thành bình, nồi, lò, lu v.v... là từ đất, như vậy bình, lò, nồi, lu v.v... có hình, có tướng, có hình có tướng thì phải hoại, những hình tướng đó hoại rồi, đất có mất hay không? Tất cả hình tướng đó là vô thường nhưng đất là thường, dù khi chưa làm thành bình, đất vẫn là đất, khi tan rã cũng trở về đất, có đổi thay chi đâu, đổi thay chỉ là đổi hình tướng của nồi lu v.v... Cũng vậy, tất cả pháp sanh ra, tuy hình tướngvô thường nhưng thể của pháp có cái chân thường ở trong, vì vậy nên Ngài nói thẳng vào thể nó là thường.

Trong đoạn trước bàn về Phật tánh, kinh nói Phật tánh là thường là đứng về thể, ngược lại đứng về dụng Ngài nói Phật tánhvô thường, vì nếu là thường tại sao có sanh thiện ác, có phát Bồ-đề tâm v.v...? Nếu có sanh thiện ác, có phát Bồ-đề tâm tức là vô thường. Như vậy người ta chỉ nhận được cái thể trong kinh nói mà không nhận được cái dụng, nên Ngài lấy dụng để cho người ta hiểu thể, thể dụng đối lập để phương tiện giáo hóa. Đến đoạn này người ta chấp trên tướng trên dụng là vô thường thì Ngài nói có tánh thường, đó là lối nói khéo của Ngài.

Phật xưa vì phàm phu ngoại đạo chấp tà thường, còn các hàng Nhị thừa thường mà chấp là vô thường, cọng thành tám thứ điên đảo, nên trong giáo lý liễu nghĩa kinh Niết-bàn phá thiên kiến kia mà hiển bày Chân thường, Chân lạc, Chân ngã, Chân tịnh. Nay ông y theo lời nóitrái với nghĩa, dùng đoạn diệt vô thường và xác định cái tử thường mà lầm hiểu lời nói mầu nhiệm viên diệu tối hậu của Phật, dù có xem một ngàn biến kinh thì có lợi ích gì?

Tôi giải thích rõ đoạn này. Tổ bảo xưa đức Phậtphàm phuNhị thừa chấp tám thứ điên đảo. Phàm phubốn điên đảo, đó là gì? Thân ngũ uẩn vô thường mà chấp là thường. Chúng ta có chấp nó là thường không? Nếu ai cũng biết thân này là vô thường thì đâu có chấp thường. Nếu ai cũng thấy nó vô thường thì lúc nào cũng phải có niệm mạng sống chỉ trong hơi thở, nhưng chúng ta có thấy như vậy không? Chúng ta còn tính kế trăm năm. Vì tính kế trăm năm nên chúng ta thấy nó là thường, nếu biết nó vô thường thì tính kế trăm năm làm gì. Trên lý, nghe Phật nói vô thường chúng ta cũng hiểu vậy, nhưng trong cuộc sống, chúng ta vẫn tính kế lâu dài, tính năm nay làm việc gì, năm tới, năm tới nữa làm việc gì v.v... như thế là chúng ta đâu thấy nó vô thường. Thế nên thấy dường như chúng ta không chấp, nhưng sự thật chúng ta luôn luôn chấp thân là thường. Thân vô thường mà chấp là thường, đó là cái điên đảo thứ nhất.

Đã là vô thường tức là đổi thay, là bại hoại nên gọi là khổ, nhưng chúng ta lại thấy lúc nào cũng vui, nên mở miệng ra là nói hạnh phúc v.v... Hãy kiểm lại xem một ngày chúng ta vui được bao nhiêu giờ? Độ vài tiếng đồng hồ! Vì là vô thường nên gốc là khổ, không phải vui mà chúng ta lại tưởng là vui, khổ mà tưởng là lạc, đó là cái điên đảo thứ hai.

Thân này nhơ nhớp nhưng chúng ta có nghĩ nó nhơ nhớp đâu. Có ai lúc nào cũng nhớ thân mình nhơ nhớp không? Tắm rửa, chải đầu v.v... thấy mình cũng đẹp cũng sạch sẽ, nếu ai chê mình dơ, hôi hám... là nổi giận liền. Nếu biết mình dơ thì người chê mình dơ, mình đâu có giận. Trong nhà Phật thường nói thất khiếu cửu huyệt tức là bảy lỗ hoặc chín lỗ thường rịn ra những chất, những chất đó sạch không? Rịn ra mũi, nước mũi sạch không? Rịn ra tai sạch không? Đến khối ghèn ở mắt có sạch không? Đó là nói phần trên mặt mà chúng ta còn không ưa nổi, huống nữa là những cặn bã đi xuống, nếu thân sạch thì đâu có những chuyện đó. Rõ ràng như thế mà lúc nào cũng thấy thân là sạch, thấy trái với lẽ thật không phải điên đảo là gì? Bất tịnh mà tưởng là tịnh, đó là cái điên đảo thứ ba.

Lại chấp tứ đại, thân xác thịt là ta, nhưng khi hỏi trong tứ đại cái gì là ta thì không ai đáp được. Đến phần tinh thần, hỏi thọ tưởng hành thức, cái nào là ta cũng không nói được. Như vậy chỉ là một hợp thể gồm nhiều thứ, tùy duyên hợp lại thành một khối tạm gọi là ta mà chúng ta lại chấp thật mình có chủ tể, lúc nào cũng nói tôi, tôi làm chủ. Vô ngã tưởng là ngã, không có chủ tể tưởng là có chủ tể là cái điên đảo thứ tư.

Tóm lại trong nhà Phật gọi bốn cái chấp điên đảo của phàm phuvô thường chấp thường, khổ chấp lạc, bất tịnh chấp tịnh, vô ngã chấp là ngã.

Trái lại hàng Nhị thừa thấy thân này là vô thường, thân này là khổ, thân này là bất tịnh, thân này là vô ngã nên các vị chán sợ mà nhập Niết-bàn, vì thế Phật nói đó cũng là bốn cái điên đảo. Tại sao? Tuy thân này vô thường, nhưng trong cái vô thường đó có cái Chân tánh thường; thân này là khổ, nhưng nếu ngộ được Chân tánh thì là lạc; thân này tuy bất tịnh, nhưng ngộ được Chân tánh thì là tịnh; thân này là vô ngã, nhưng Chân tánh là chủ thể, là ngã. Như khi chúng ta nhận được cái hằng liễu tri của mình, thử hỏi cái đó tịnh hay bất tịnh? Nó là thanh tịnh nên nói Pháp thân thanh tịnh, Pháp thân là ngã chớ gì, làm sao mất được. Như vậy đối với phàm phu, các hàng Nhị thừa thấy đúng lẽ thật, nhưng thấy đúng lẽ thật trên tướng mà không nhận ra tánh nên đó cũng là điên đảo.

Bốn điên đảo của Nhị thừa cọng với bốn điên đảo của phàm phu thành ra bát đảo. Phật nói pháp là vì phá cái chấp của phàm phu, rồi đến phá chấp của Nhị thừa, để đưa đến Niết-bàn đầy đủ bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Đó là yếu chỉ của kinh Niết-bàn.

Hành Xương bỗng nhiên đại ngộ, liền nói kệ rằng:

Nhân thủ vô thường tâm,
Phật thuyết hữu thường tánh,
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền,
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.

Vì giữ tâm vô thường nên Phật nói có tánh thường, tức là vì hàng Nhị thừa thấy các pháp là vô thường nên đức Phật chỉ có tánh thường ở trong; không biết được phương tiện của Phật nói, ví như mùa Xuân nhảy xuống ao để mò gạch. Đây là thí dụ trong kinh Niết-bàn để phân biệt hàng Nhị thừa với Bồ-tát. Vào một mùa Xuân có một nhóm người bơi thuyền dạo chơi trên hồ nước trong, có người cầm viên ngọc bất chợt sẩy tay ngọc rớt xuống nước, ông ta hối bảo những người trên thuyền nhảy xuống hồ mò tìm. Những người ấy nhảy ùm xuống quơ mò được hòn gạch liền nắm lấy đưa lên nói được ngọc rồi, nhưng khi mở tay ra chỉ là hòn gạch. Khi ấy có một người trí chờ nước lóng trong, thấy rõ viên ngọc nằm chỗ nào, mới từ từ lặn xuống, nhẹ nhẹ đưa tay đến chỗ viên ngọc, nắm lấy đem lên. Hàng Nhị thừa giống như những người nhảy xuống ao lượm gạch đưa lên nói là ngọc, vì cứ nghĩ dưới ao có ngọc nên vội nhảy xuống, lượm được cái gì thì tin cái đó là ngọc, thật sự không phải ngọc mà lầm tưởng là ngọc. Hàng Bồ-tát như người khôn ngoan kia, đợi thấy rõ viên ngọc ở đâu mới từ từ lượm nó đem lên, đó mới là ngọc thật. Hàng Bồ-tát nhận được Phật tánh rồi mới tiến tu đến chỗ giác ngộ không lầm, còn hàng Nhị thừa chấp vào phương tiện Phật dạy để được định rồi hài lòng nơi đó, nhưng không ngờ là chưa đến cứu kính. Thế nên người không hiểu phương tiện của Phật cũng chấp như người nhảy xuống ao lượm gạch vậy.

Nay tôi chẳng cần thực hiện công phuPhật tánh được hiện tiền, không phải thầy trao cho, tôi cũng không sở đắc.

Tổ bảo:

Nay ông mới triệt vậy, nên đặt tên ông là Chí Triệt.

Chí Triệt lễ tạ mà lui.

GIẢNG 3

THẦN HỘI

Thiền sư Thần Hội:

Có một chú bé tên là Thần Hội ở Tương Dương, con nhà họ Cao, mười ba tuổi, từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ.

Tổ hỏi:

Tri thức từ xa nhọc nhằn đến lại đem được cái gốc đến chăng? Nếu có gốc thì nên biết được Ông chủ, thử nói xem?

Thần Hội thưa:

Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.

Ông Sa-di này có vẻ cứng cỏi rồi!

Tổ bảo: Ông Sa-di này đâu nên nói như thế.

Thần Hội liền hỏi:

Hòa thượng tọa thiền lại thấy hay chẳng thấy?

Tức là Hòa thượng tọa thiền lại thấy tánh hay không thấy tánh, rõ ràng là trẻ con, nếu không thấy tánh sao được truyền y làm Tổ.

Tổ cầm gậy đánh ba gậy hỏi:

Tôi đánh ông đau hay chẳng đau?

Thần Hội cũng thật là gan.

Thần Hội đáp: Cũng đau cũng không đau.

Giả sử hiện nay mấy chú Sa-di bị đánh ba gậy thì cứ khóc thôi, chớ còn nói gì nữa!

Tổ bảo: Tôi cũng thấy cũng chẳng thấy.

Thần Hội hỏi: Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?

Tổ bảo:

Chỗ thấy của tôi thường thấy những lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy phải quấy tốt xấu của người khác, ấy do cũng thấy mà cũng chẳng thấy.

Vì là Sa-di nên Tổ phải dạy như thế.

Ông nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu ông chẳng đau thì đồng như cây đá, nếu ông đau thì đồng với phàm phu, tức khởi sân hận, ông về trước thấy và chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt, ông Tự tánh lại chẳng thấy mà dám đùa với người.

Tổ quở nặng.

Thần Hội liền lễ bái sám hối. Tổ lại nói:

Tâm ông nếu mê chẳng thấy thì hỏi Thiện tri thức để tìm đường, còn tâm ông nếu ngộ tức tự thấy tánh, y pháp tu hành, ông tự mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy thì tự biết há thay cái mê cho ông, nếu ông tự thấy cũng chẳng thay được cái mê cho ta, sao chẳng tự biết tự thấy mà hỏi ta thấy cùng chẳng thấy.

Tổ quở thêm một lần nữa. Ngài Thần Hội mới mười ba tuổi nhưng thông minh, có lẽ cũng hơi hiểu nên tới lễ Tổ, khi Tổ hỏi thì đáp có vẻ cứng cỏi, nhưng đến khi hỏi Tổ ngồi thiền có thấy tánh hay không, liền hiện ra tướng con nít nên bị Tổ ra oai đập ba gậy. Người xưa đi học đạoxem thường sự sống chết nên dù bị đánh cũng vẫn đối đáp như thường, còn chúng ta hiện nay nếu bị đánh như vậy thì khóc mướt rồi, đó là điểm đặc biệt.

Thần Hội lại lễ hơn một trăm lạy, xin sám hối tội lỗi rồi siêng năng hầu hạ bên cạnh không rời.

Một hôm Tổ bảo chúng:

Tôi có một vật không đầu, không đuôi, không danh, không tự, không lưng, không mặt, các người lại biết chăng?

Thần Hội bước ra nói rằng:

Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.

Vì Ngài còn trẻ, khi hiểu lời nói thì không thể làm thinh, nên đứng ra nói liền: Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.

Tổ bảo:

Tôi đã nói với ông không danh không tự, ông liền gọi là bản nguyên, là Phật tánh, ông nhằm đi lấy cỏ tranh che đầu, cũng chỉ thành cái hạng tông đồ của tri giải.

Danh tự cũng như là một mớ cỏ che ngoài đầu chớ không phải là cái thật, phải thấy cái thật đó chớ đừng dùng danh tự.

Sau khi Tổ diệt độ, Ngài Thần Hội vào Kinh Lạc(1), hoằng truyền pháp đốn giáo Tào Khê, viết quyển Hiển Tông Ký thạnh hành ở đời, gọi là Thiền sư Hà Trạch.

Tổ thấy các tông nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác, phần nhiều nhóm ở dưới tòa của Tổ, Ngài thương xót mới bảo rằng:

Người học đạo, tất cả niệm thiện, niệm ác nên phải dẹp sạch, không tên có thể gọi, ấy gọi là Tự tánh, tánh không hai ấy gọi là Thật tánh, trên Thật tánh dựng lập tất cả giáo môn, ngay lời nói liền phải tự thấy.

Tổ thấy các tông phái khác nhau như về Thiền thì có Nam Bắc, hoặc là Tịnh hoặc là Mật tông v.v... phần nhiều nhóm họp dưới tòa của Tổ, vì họ thường nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác, nên Tổ thương xót bảo cho tất cả biết rằng còn có một niệm thiện hay một niệm ác cũng phải dẹp sạch, cái không tên có thể gọi mới gọi là Tự tánh; nếu còn nói đây là đốn, kia là tiệm, đây là Không tông, kia là Hữu tông v.v... còn chấp vào danh tự thì chưa phải là cái thật. Tánh không hai ấy gọi là Thật tánh, trên Thật tánh đó dựng lập các giáo môn, ngay đó mình phải thấy được Tự tánh chớ đừng chấp.

Các người nghe nói, thảy đều làm lễ, xin thờ Ngài làm Thầy.


(1) Kinh Lạc tức là Lạc Dương, kinh đô nước Tàu về đời Hán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11694)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12020)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11166)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11400)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12127)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12608)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10830)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18053)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11777)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10008)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10232)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12415)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15416)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11289)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14409)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12167)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15460)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12062)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12477)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11262)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12138)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10680)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12597)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13243)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12756)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16643)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19746)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13186)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12733)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12333)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11924)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10985)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13595)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12010)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11919)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11699)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12817)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14604)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12680)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15750)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13681)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12972)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9931)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18080)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11242)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9126)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12258)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13106)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10357)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12247)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15396)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16680)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12302)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11573)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14347)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19791)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14228)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24708)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10740)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant