Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Chỉ Ra Không Có Cái Gì Ra Ngoài Tánh Thấy

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10706)
03. Chỉ Ra Không Có Cái Gì Ra Ngoài Tánh Thấy

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM


Mục 3: Phật Nêu Ra Tánh Thấy Ngoài Các Nghĩa “Phải” Và “Chẳng Phải”

III. CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ RA NGOÀI TÁNH THẤY

Phật lại bảo Ông Anan: “Như lời ông nói: Không có cái Thấy mà lìa ngoài tất cả vật lại riêng có tự tánh, do đó trong tất cả các vật chỉ ra được, không có cái gì là cái Thấy cả. Nay ta lại bảo ông: Ông cùng Như Lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, lại xem vườn rừng cho đến mặt trời, mặt trăng, đủ thứ hình tượng khác nhau, chắc không có cái Thấy cho ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái gì chẳng phải là cái Thấy?”

Ông Anan bạch: “Quả thật, tôi nhìn khắp rừng Kỳ Đà này chẳng biết trong đó có cái gì không phải là cái Thấy. Tại sao thế? Nếu cái cây chẳng phải là cái Thấy thì làm sao thấy được cây? Còn nếu cái cây là cái Thấy thì sao lại là cây? Như thế cho đến nếu hư không chẳng phải là cái Thấy, thì làm sao thấy hư không. Nếu hư không tức là cái Thấy, thì sao lại là hư không? Tôi lại suy nghĩ: trong muôn vật đó, phát minh cho kỹ lưỡng, thật không có cái gì chẳng phải là cái Thấy cả”.

Phật nói: “Đúng thế, đúng thế!”

Thông rằng: Ông Anan đã biết “Cái chỉ được đều là vật, không có cái gì là cái Thấy” thì thân tâm ta cho đến núi sông bên ngoài, không có Tánh Thấy riêng biệt có thể chỉ ra được, mà sao lại nói “Nay cái Diệu Tánh ấy hiện bày trước mặt tôi”? Hơn nữa, đã biết “Trong muôn tượng, không có cái gì chẳng phải là cái Thấy”; tức thân tâm ta cho đến núi sông bên ngoài không có cái gì chẳng phải là Tánh Thấy, sao lại còn hỏi “Tánh Thấy thật là tôi, mà thân chẳng phải là tôi”?

Đức Thế Tôn bèn khiến ông tự phát huy, khiến cái nghi ngờ từ trước được giải tan ngay.

Xưa, thầy Thủ Tòa Tử Chiêu hỏi Hòa Thượng Pháp Nhãn: “Hòa Thượng khai đường kế pháp người nào?”

Tổ Nhãn rằng : “Ngài Địa Tạng”.

Thầy Chiêu nói: “Rất phụ phàng Tiên Sư Trường Khánh!”

Tổ Nhãn: “Tôi chẳng hiểu một lời chuyển ngữ của Ngài Trường Khánh”.

Thầy Chiêu nói : “Sao không hỏi?”

Tổ Nhãn : ““Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân [Vạn tượng chi trung độc lộ thân]” ý là sao?”

Thầy Chiêu bèn dựng đứng cây phất tử.

Tổ Nhãn : “Đó là cái học được ở chỗ Ngài Trường Khánh, còn riêng Thủ Tòa thì sao?”

Thấy Chiêu không nói được.

Tổ Nhãn nói : “Chỉ như Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân, đó là bác bỏ muôn tượng hay không bác bỏ muôn tượng?”

Thầy Chiêu đáp : “Chẳng bác bỏ”.

Tổ Nhãn nói : “Hai cái!”

Hỏi những người chung quanh, đều nói : “Bác bỏ muôn tượng”.

Tổ Nhãn nói: “Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân, cái Phù trừ quỉ!”.

Về sau, Thượng Tọa Tử Phương cũng từ Trường Khánh đến.

Tổ Nhãn lại đưa ra câu nói ấy. Thầy Tử Phương cũng dựng phất tử.

Tổ Nhãn nói: “Như thế này thì lại tranh cãi được!”

Thầy Phương nói: “Tôn ý của Hòa Thượng như thế nào?”

Tổ Nhãn đáp: “Kêu cái gì làm muôn tượng?”

Thầy Phương: “Người xưa chẳng bác bỏ muôn tượng!”

Tổ Nhãn nói: “Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân. Nói gì bác, chẳng bác?”

Thầy Tử Phương bỗng tỏ ngộ lời nói trước của Tổ Pháp Nhãn.

Cái loại cơ duyên này vốn từ chỗ Ngài Địa Tạng mà đắc, làm sao chẳng phải nói pháp Ngài Địa Tạng!

Mới đầu, Tổ Pháp Nhãn cùng với thầy Thiệu Tu, Pháp Tấn ba người đi đến Ngài Địa Tạng. Ngồi sưởi mà bàn về bộ Triệu Luận. Đến câu “Trời đất cùng ta đồng gốc”, Ngài Địa Tạng hỏi: “Núi sông, đất đai với tự kỷ của Thượng Tọa là đồng hay khác?”

Ngài Pháp Nhãn đáp: “Khác”.

Tổ Tạng đưa lên hai ngón tay.

Ngài Nhãn nói: “Đồng”.

Tổ Tạng lại đưa lên hai ngón tay, rồi đứng lên bỏ đi.

Tuyết ngưng, ba người từ giã ra về.

Tổ Tạng đưa tiễn ra cửa, rồi nói: “Bình thường, Thượng Tọa hay nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Bèn chỉ phiến đá ngoài sân, hỏi: “Hãy thử nói phiến đá kia là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?”

Ngài Pháp Nhãn nói: “Ở trong tâm”.

Tổ Tạng nói: “Người hành cướclý do nào mà lại để phiến đá ở trong tâm?”

Ngài Pháp Nhãn cùng quẫn, không sao đáp được, bèn ném áo xuống chiếu, ở lại để cầu quyết trạch. Hơn một tháng, ngày kia Ngài trình kiến giải, nói cái lý đạo.

Tổ Tạng nói: “Phật Pháp chẳng phải như thế”.

Ngài Pháp Nhãn nói : “Tôi đã hết lời, tuyệt lý rồi”.

Tổ Tạng nói: “Nếu luận Phật Pháp, thì hết thảy hiện thành”.

Ngài Pháp Nhãn, ngay dưới câu nói đại ngộ. Mới tin rằng chỗ học được với Ngài Trường Khánh là chưa tới.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Lìa niệm: thấy Phật

Dẹp trần: ra kinh

Hiện thành gia pháp

Nào lập môn đình?

Trăng cùng thuyền lướt, sông trong vắng

Xuân theo ngọn cỏ ngấn tươi xanh

Bác, chẳng bác - Nghe cho kỹ!

Ba đường hoang trống về liền được

Tùng cúc thuở xưa hương vẫn thơm”.

(Ly niệm kiến Phật

Phá trần xuất kinh

Hiện thành gia pháp

Thùy lập môn đình

Nguyệt trục chu hành giang luyện tịnh

Xuân thùy thảo thượng thiên ngấn thanh

Bác, bất bác thinh đinh ninh

Tam kính tựu hoang quy tiện đắc

Cựu thời tùng cúc thượng phương hình).

Hãy lấy tắc công án này cùng với đoạn kinh trên, lật đi lật lại cho rõ ràng mùi mẻ, thì chẳng biết là Ông Quách Tượng [Nhà chú giải Trang Tử Nam Hoa Kinh] giải thích Trang Tử, hay Trang Tử giải thích Quách Tượng?

Kinh: Khi ấy, trong đại chúng những vị chưa chứng quả Vô Học nghe Phật nói thế, mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng thời sợ hãi, mất chỗ bám níu.

Như Lai biết đại chúng tâm niệm rối loạn, sanh lòng thương xót, an ủi Ông Anan và đại chúng rằng: “Này các trai lành, bậc Vô Thượng Pháp Vương, thật là Chân Thật Ngữ: như tánh Chân Như mà nói, không dối, không vọng, không phải là bốn thứ nghị luận càn dở Bất Tử của nhóm Mạt Già Lê. Ông hãy suy nghĩ chín chắn, chớ phụ lòng thương mến của Ta”.

Thông rằng: “Mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy trước sau thế nào?” Trước là, “Cái Thấy chẳng phải là vật”. Sau là, “Cái Thấy chẳng phải là không phải vật”. Cái trước tức là “Chân Tánh hiện tiền”, cái sau tức là “Không thể chỉ ra được”. Cho nên mờ mịt mất chỗ bám níu vậy.

Chân Thật Ngữ v.v... tức là năm lời nói trong Kim Cang Bát Nhã:

- Phật Chân Ngữ thì chung với Nhị Thừa;

- Phật Thật Ngữ thì chung đồng với hàng Bồ Tát;

- Phật Như Ngữ thì không chung với Bồ Tát hay Nhị Thừa;

- Phật Vô Thật Ngữ;

- Phật Vô Hư Ngữ.

Vô Hư nên không là lời lừa dối, Vô Thật nên chẳng có khác lời. Chỗ thấy chưa dứt khoát cho nên nói “Chẳng khác”. Đây chỉ để nói tóm là không vọng ngữ.

Trong Luận Bà Sa: “Ngoại đạo cho trời là thường trụ, gọi là Bất Tử, cho rằng đáp lời mà chẳng rối loạn thì sanh về cõi trời kia. Nếu thật chẳng biết mà vội trả lời, thì sợ thành Kiểu Loạn [Dối trá, lộn xộn]. Nên khi hỏi thì đáp những lời bí mật, không cần phải nói ra đây. Hoặc là đáp một cách bất định. Phật quở rằng : Đó thật là kiểu loạn ”.

Đức Thế Tôn, nhân có ngoại đạo hỏi: “Hôm qua Ngài thuyết pháp gì ?”

Phật đáp : “Thuyết định pháp”.

Ngoại đạo lại hỏi: “Hôm nay thuyết pháp gì?”

Ngài đáp: “Bất định pháp”.

Ngoại đạo nói: “Hôm qua giảng định pháp, hôm nay sao lại giảng bất định pháp?”

Đức Phật nói: “Hôm qua định, hôm nay chẳng định”.

Hãy nói xem lời nói này của Thế Tôn là như Tánh Chân Như mà nói hay là kiểu loạn? Hãy tham!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15859)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11144)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53804)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13061)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16685)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15540)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19272)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 20042)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15638)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15473)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15261)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20474)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 24139)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15624)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13128)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20355)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13373)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29105)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11795)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18405)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16756)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13331)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12887)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13343)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13091)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12978)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13115)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13649)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11812)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14331)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17834)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22704)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13534)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14432)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105946)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14684)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19891)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38540)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15654)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34814)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16165)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11438)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15770)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14153)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12936)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13821)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19502)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27124)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13225)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13583)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21728)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18067)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 22026)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14312)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16192)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16292)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19247)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24959)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant