Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Đảnh Sanh Vương Cố Sự

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11893)
Kinh Đảnh Sanh Vương Cố Sự

PHẬT NÓI KINH ÐẢNH SANH VƯƠNG CỐ SỰ


Đại Chánh Tân Tu số 0039 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả A Nanmột mình tại một nơi thanh vắng, liền nghĩ như vầy: “Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước vẫn còn tàng trữ, không có nhàm tởm, biết đủ đối với lòng tham dục”.

Bấy giờ tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ đức Thế Tôn. Ðến rồi đầu mặt lạy đức Phật, ngồi qua một bên. Khi ấy tôn giả A Nan trong khoảng khắc từ chỗ ngồi đứng dậy, qùy xuống chấp tay bạch đức Thế Tôn rằng:

-Vừa rồi, ngay chỗ ngồi thiền, con liền khởi lên ý nghĩ rằng: “Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước con người vẫn không nhàm chán, biết đủ”.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan:

–Quả thật như vậy, này A Nan! Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước con người vẫn còn tàng trữ, thật không có sự nhàm chán biết đủ. Vì sao như vậy? Này A Nan, trong đời quá khứ xưa có một vị vua tên là Ðảnh Sanh, là vị vua lấy chánh pháp cai trị, giáo hóa nhân dân, không có tàn bạo, đầy đủ bảy báu. Bảy báu đó là: xe báu, voi báu, ngựa xanh biếc báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và điển binh báu. Ðó là bảy báu. Cũng có một ngàn người con dũng mãnh, tài cán, nhan sắc khôi ngô, có thể nhiếp phục địch quân, vị ấy thống lĩnh thế giới này cho đến sông ngòi, đại hải, lấy pháp cai trị, giáo hóa nhân dân, không dùng dao gậy.

Này A Nan, bấy giờ đại vương Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa thọ mạng lâu dài, thông minh trí tuệ, nói như vầy; nhưng ta có châu Diêm Phù Lợi này, có thế lực thần thông, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn vinh trù phú”. Vua bèn sanh ý nghĩ này: “Ta muốn có trận mưa bảy báu ngay trong cung điện của ta”. Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh vừa khởi lên ý nghĩ đó, trời liền mưa bảy báu trong bảy ngày.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa thọ mạng lâu dài, thông minh trí tuệ, nói rằng có xứ Phất Vu Ðãi, thần túc tự tại, lúa gạo phì nhiêu, nhân dân phồn thịnh trù phú, ta muốn đến xứ đó để cai trị giáo hóa”. Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh mới nghĩ như vậy xong, biến mất khỏi Diêm Phù Lợi, hiện ra ở Phất Vu Ðãi, cùng với bốn bộ binh chủng. Bấy giờ chúng sanh ở Phất Vu Ðãi từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đến, mọi người vây quanh nhà vua, ai cũng đem bát bằng bạc đựng đầy vàng vụn, hoặc cầm bát bằng vàng đựng đầy bạc vụn, đi đến chỗ vua Ðảnh Sanh. Ðến rồi thưa với vua Ðảnh Sanh: -Lành thay đại vương đã đến! Cõi Phất Vu Ðãi này là của đại vương, thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Mong đại vương hãy ở đây để cai trị giáo hóa, tất cả chúng tôi đều là thần dân của đại vương.

Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh ở đó để cai trị giáo hóa trong vô số trăm ngàn năm. Này A Nan,, khi đó đại vương Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta có châu Diêm Phù Ðề, ưa muốn điều gì liền được toại nguyện, có thần túc, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta đã có mưa bảy báu trong cung điện suốt bảy ngày, nay ta lại có cõi Phất Vu Ðãi tự tại thần túc, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta từng nghe người xưa thông minh trí tuệ, nói như vầy: “Có quốc thổ Cù Da Ni thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú”. Vua liền nghĩ như vầy: “Ta muốn đến cõi Cù Da Ni để giáo hóa nhân dân”. Này A Nan, khi vua Ðảnh Sanh nghĩ như vậy xong, liền biến mất khỏi Phất Vu Ðãi, đến cõi Cù Da Ni cùng với bốn loại binh chủng. Lúc đó nhân dân Cù Da Ni từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh họ đều cầm bát bằng bạc đựng đầy vàng vụn, hay cầm bát bằng vàng đựng đầy bạc vụn, đều mang đến chỗ vua Ðảnh Sanh để dâng hiến. Ðến xong họ thưa với vua Ðảnh Sanh rằng: -Lành thay đại vương đã đến! Ðây là cảnh giới Cù Da Ni của vua, lúa thóc sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Cúi mong đại vương hãy ở lại đây để giáo hóa nhân dân. Chúng tôi đều là thần dân của đại vương.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh ở Cù Da Ni để cai trị giáo hóa nhân dân vô số trăm ngàn, vô số vạn năm.

Này A Nan, bấy giờ vào một đời khác, đại vương Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta có đất Diêm Phù Lợi, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú, có mưa bảy báu trong cung điện cho đến bảy ngày. Ta lại có cõi Phất Vu Ðãi thần dân tự tại, lúa gạo dồi dào, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta lại cũng có cõi Cù Da Ni, thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú”. Khi ấy vua Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa, bậc thông minh trí tuệ, nói như vầy: Có châu Uất Ðơn Việt, thần túc tự tại, nhân dân phồn thịnh trù phú. Tất cả nhân dân ở trong cõi đó đều không bị lệ thuộc bất cứ thứ gì, ý muốn tự tại, thọ mạng lâu dài, ở đó mạng chung lại sanh lên trời, ăn lúa gạo tự nhiên, mặc y phục Kiếp Ba Dục”. Bấy giờ vua Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta hãy ở đó để cai trị giáo hóa”. Mới nghĩ như vậy, này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh liền biến mất ở Cù Da Ni liền đến Uất Ðơn Việt cùng với bốn thứ binh chủng. Khi ấy vua Ðảnh Sanh từ xa trông thấy cõi nước ấy đất đai bằng phẳng, toàn là màu sắc xanh tươi. Khi vua thấy màu sắc như vậy liền bảo với nhân dân, quần thần:

–Các khanh, các ngươi có thấy đất đai bằng phẳng, màu sắc xanh tươi không?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy, thưa đại vương!

Vua bảo:

–Ðây là loại cây Kiếp Ba Dục dùng để làm áo, nhân dân ở đây đều mặc áo Kiếp Ba Dục. Các khanh cũng hãy mặc áo Kiếp Ba Dục.

Bấy giờ đại vương Ðảnh Sanh lại thấy đất đai nơi này toàn là sắc trắng, thấy rồi bèn bảo các quần thần: -Các khanh có thấy đất này toàn bộ màu trắng chăng?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy!

Ở đây lúa thóc tự nhiên, không có vỏ, không có cành, không cần ra sức chà đập, cũng không cần giê gạo cho sạch cám. Gạo có mùi hương bay theo gió thơm cả một trăm do tuần, nếu bay ngược gió thì thơm đến năm mươi do tuần, rất thơm, rất ngon. Nhân dân ở đây ăn gạo lúa thơm này. Chư hiền cũng hãy ăn gạo lúa thơm này.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh từ xa trông thấy đất đai bằng phẳng, toàn là màu xanh tươi. Thấy rồi bảo nhân dân, quần thần rằng:

–Các ngươi thấy đất đai ở đó toàn màu xanh tươi chăng?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy, thưa đại vương!

Ðó là loại cỏ Tứ chỉ mềm mại, rất mềm mại, như lông chim Khổng tước, chúng đều xoay quanh phía hữu, thân của chúng cũng vậy. Người Uất Ðơn Việt đều ngồi trên cỏ này, các khanh cũng nên ngồi trên cỏ đó. Khi ấy đại vương Ðảnh Sanh từ xa trông thấy những bức tường thấp bao quanh thành quách lâu đài, bèn bảo nhân dân quần thần rằng:

–Các khanh có thấy đất đai ở đây bằng phẳng, có tường thấp bao quanh lâu đài chăng?

Thưa rằng:

–Ðúng vậy, thưa đại vương!

Vua bảo:

–Ðó là nhà cửa của nhân dân vậy.

Lúc ấy nhân dân Uất Ðơn Việt từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đến, đều lấy bát bằng vàng đựng lúa bằng bạc, lấy bát bạc đựng đầy lúa vàng, tâu với vua Ðảnh Sanh rằng: “Lành thay đại vương đã đến đây. Ngài có thần túc tự tại. Ðây là cõi Uất Ðơn Việt của đại vương, lúa gạo sung túc, nhân dân đông đúc, cúi xin đại vương hãy ở Uất Ðơn Việt mà cai trị giáo hóa nhân dân. Chúng tôi đều vâng theo lời dạy của đại vương.

Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh ở Uất Ðơn Việt để cai trị giáo hóa nhân dân trong vô số trăm năm, vô số ngàn năm.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh vào lúc khác lại nghĩ như vầy: “Ta đã có cõi Diêm Phù Lợi, thần túc tự tại cho đến nhân dân đông đúc. Ở đó ta được mưa bảy báu trong cung bảy ngày. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc tự tại, nhân dân đông đúc. Ta cũng có cõi Cù Da Ni, thần túc tự tại, nhân dân đông đúc. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt, thần túc tự tại, cho đến nhân dân đông đúc. Ta từng nghe người xưa, bậc thông minh trí tuệ, nói như vầy: Có cõi Tam Thập tam thiên, (nhân dân) ở đó thọ mạng lâu dài, dung mạo đoan chánh. Ở đó có một vị trời tên là Thích Ðề Hoàn Nhân, nay ta sẽ đến cõi Tam Thập tam thiên ấy để thọ hưởng năm thứ: tuổi của trời, sắc đẹp của trời, nhạc trời, thần túc của trời và tăng thượng của trời. Nay ta muốn đến cõi Tam Thập tam thiên ấy”.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh mới nghĩ như vậy xong liền cùng bốn binh chủng biến mất nơi cõi Uất Ðơn Việt , đến Tam Thập tam thiên, đi vào giảng đường Thiện Pháp. Bấy giờ Thích Ðề Hoàn Nhân (trời Ðế Thích) từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đi lại, thấy rồi liền bảo vua Ðảnh Sanh rằng:

–Lành thay, đại vương đã đến! Hãy ngồi vào tòa này.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh liền đến tòa mà ngồi cùng với Thích Ðề Hoàn Nhân. Hai vua cùng ngồi hoàn toàn không khác gì nhau về dung nhan, tướng mạo đoan chánh, họ đều chẳng sai khác. Chỉ có ánh mắt là khác nhau thôi.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta có cõi Diêm Phù Lợi, thần túc tự tại cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú, ơ û trong cung điện có mưa bảy báu cho đến bảy ngày. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta cũng có cõi Cù Da Ni thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú, và cõi Tam Thập tam thiên này nhân dân trường thọ. Ta sẽ ở lâu chốn này.

Khi ấy ở Tam Thập tam thiên tập hợp ở giảng đường Thiện Pháp, mọi người theo thứ lớp ngồi xong, bấy giờ Tam Thập tam thiên bèn suy nghĩ rằng: “Vua Ðảnh Sanh là vua cõi Diêm Phù Lợi, lấy pháp để cai trị giáo hóa, có bảy báu đầy đủ, có một ngàn người con trai vây quanh. Trong bốn cảnh giới, vua này là hết sức tôn quý. Nhà vua không dùng dao gậy, chỉ dùng pháp cai trị giáo hóa nhân dân”.

Này A Nan, lúc đó Thích Ðề Hoàn Nhân nhường nửa tòa mời vua Ðảnh Sanh cùng ngồi. Hai vua cùng ngồi ánh sáng và màu sắc không khác nhau, nhan sắc, dung mạo hoàn toàn giống nhau, chỉ có ánh mắt là khác nhau thôi.

Này A Nan, lúc đó vua Ðảnh Sanh đối với năm thứ dục lạc dùng để tự vui vẫn không nhàm chán, biết đủ, trong vô số trăm ngàn năm, vô số vạn năm. Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác liền sanh ý nghĩ như vầy: “Những cảnh giới do ta thống lĩnh gồm có cõi Diêm Phù Lợi thần túc cho đến nhân dân đều sung túc, trong bảy ngày mưa bảy báu trên cung điện ta. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta cũng có cõi Cù Da Ni thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta lại có ở đây cõi Tam Thập tam thiên thọ mạng lâu dài, nhan sắc rực rỡ. Có giảng đường Thiện Pháp này có đủ bốn khu vườn. Những gì là bốn?

–Vườn Nam Ðàn Hoàn, vườn Bảo Ðiện, vườn Quy Kiên, vườn Tạp Chủng. Ðó là bốn khu vườn. Có cây Trú Ðạt Thọ, cây Câu Tỳ Ða La thảy đều sầm uất, mùi hương bay theo chiều gió thơm cả một trăm do tuần. Nếu lúc ngược gió thơm đến năm mươi do tuần. Ðó là chỗ vui chơi của Tam Thập tam thiên, trong bốn tháng, dân ở đó dùng ngũ dục để tự hoan lạc. Thiện Pháp giảng đường làm bằng lưu ly xanh, đó chính là chỗ ngồi của Thiên Ðế, có trăm đài chung quanh đều làm bằng bảy báu, mỗi mỗi đài có bảy trăm lầu gác, mỗi mỗi lầu gác có bảy trăm Ngọc nữ, mỗi mỗi Ngọc nữ có bảy trăm người hầu, tất cả đều do Thích Ðề Hoàn Nhân thống lĩnh.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh lại nghĩ như vầy: “Ta nay nên di chuyển Thích Ðề Hoàn Nhân đi, ta sẽ giáo hóa cai trị chư thiênTam Thập tam thiên này. Này A Nan, khi vua Ðảnh Sanh vừa nghĩ như vậy, liền ngay nơi chỗ ngồi của Thích Ðề Hoàn Nhân rớt xuống Diêm Phù Lợi cùng với bốn thứ binh chủng, mất hết thần túc, toàn thân đau đớn, giống như người lúc sắp chết, thì xe báu mất, voi báu chết, ngựa báu cũng chết, châu báu không hiện, nữ báu mạng chung, cư sĩ báu và điển binh báu đều chết hết.

Này A Nan, bấy giờ năm nhóm thân thuộc của đại vương Ðảnh Sanh đều nhóm họp lại, đi đến chỗ vua Ðảnh Sanh tâu rằng:

–Sau khi đại vương mạng chung, nếu có người đến hỏi chúng thần rằng: “Ðại vương Ðảnh Sanh lúc sắp băng hà có chỉ bảo điều gì?”, chúng thần sẽ đáp như thế nào?

Nhà vua bảo:

–Các hiền nên biết, đại vương Ðảnh Sanh thống lĩnh bốn châu thiên hạ, lên đến Tam Thập tam thiên, nhưng đối với ngũ dục lòng vẫn chưa nhàm chán, chưa biết thỏa mãn, cho đến lúc chết.

Này A Nan, ngươi nên biết rằng vua Ðảnh Sanh lúc đó nào phải người nào khác. Ðừng nên nghĩ như vậy. Vì sao? Này A Nan, vị vua lúc đó chính là thân ta vậy. Do phương tiện này, A Nan nên biết, cho đến (lúc chết) mà đối với ngũ dục vẫn không nhàm chán, biết đủ; do nhiễm trước đối với dục, tụ tập tàng trữ, không có nhàm chán biết đủ đối với dục. Cái gọi là biết đủ đối với dục chừng nào đạt đến con đường của Hiền thánh, chừng đó mới biết đủ.

Bấy giờ đức Thế Tôn bèn nói bài kệ rằng:

Không phải có tiền tài

Mà biết nhàm chán dục

Vui ít, khổ não nhiều

Kẻ trí nào ham muốn.

Giả sử trong ngũ dục

Mà lòng không tham đắm

Ái hết liền được vui

Cả ba, đệ tử Phật.

Do dục tham lợi dưỡng

Chết liền vào địa ngục

Dục lạc sẽ thế nào

Mạng người bị thống khổ.

Các pháp đều vô thường

Ðã sanh phải bại hoại

sanh sanh chấm dứt

Diệt dục, vui đệ nhất.

Bấy giờ tôn giả A Nan nghe đức Phật dạy, hoan hỷ vâng làm.

 

PHẬT NÓI KINH ÐẢNH SANH VƯƠNG CỐ SỰ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14642)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11695)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12642)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10184)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11950)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15158)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10951)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10395)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12350)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16282)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14139)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11646)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14648)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11909)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16689)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11479)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12627)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11233)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11932)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51770)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15328)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13863)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11357)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12666)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13108)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54046)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14283)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9848)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57631)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14357)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19983)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15290)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17365)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13220)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11827)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13380)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14557)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12368)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12049)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11962)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13232)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25381)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12101)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14420)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11746)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41948)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28176)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38582)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14618)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12593)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16115)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant