Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thiết Thành Nê Lê

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11397)
Kinh Thiết Thành Nê Lê


PHẬT NÓI KINH THIẾT THÀNH NÊ LÊ


Đại Chánh Tân Tu số 0042 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn Sa Môn Trúc Ðàm Vô Lan.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, Kỳ Hoàn A Nan Bân để A Lam. Bấy giờ đức Phật bảo các sa môn rằng:

–Ta dùng thiên nhãn xem thấy người trong thiên hạ, lúc sanh, lúc tử, hoặc đẹp, hoặc xấu, kẻ tôn quý, người hạ tiện. Có người khi chết được sanh vào đường lành, có người thì sanh đường dữ. Con ngườithế gian, thân làm điều ác, miệng nói điều ác, ý nghĩ điều ác, thường ưa nấu nướng, giết hại sinh linh để tế thờ quỷ thần nên khi thân chết phải vào trong địa ngục. Còn người thân thường làm thiện, miệng thường nói lời thiện, ý thường nghĩ điều thiện, sau khi chết liền được sanh lên trời.

Ðức Phật dạy:

–Con người như bọt nước mưa ở trên trời, mưa từ trên trời rơi xuống, cái này bị bể thì cái kia lại thành. Con ngườithế gian lúc sanh, lúc tử mong manh cũng như bọt nước.

Ðức Phật dùng thiên nhãn xem thấy người trong thiên hạ, khi chết thì có người lên thiên đường, có người xuống địa ngục, có kẻ nghèo, có người giàu, có kẻ sang, có người hèn, chính là do con người làm thiện hay làm ác mà ra.

Ðức Phật nói: “Tất cả những việc ấy ta đều biết hết”. Giống như ban đêm trời tối, ở hai bên cửa thành đều có đèn đuốc, người ra kẻ vào có đến vài ngàn vạn người, từ trong bóng tối mà nhìn thì đều thấy kẻ ra người vào trong ánh lửa”.

Ðức Phật dạy:

-Ta dùng thiên nhãn xem thấy người trong thiên hạ, khi chết thì có người lên cõi trời, có người xuống địa ngục. Giống như người từ trong bóng tối thấy ánh lửa mà đi ra đi vào. Giống như người leo lên lầu cao nhìn xuống dưới, có mấy ngàn ngôi nhà, kẻ ấy đều thấy hết.

Ðức Phật dạy:

–Ta thấy người trong thiên hạ, lúc chết có người sanh lên trời, có người xuống địa ngục, giống như người từ trên lầu cao nhìn các ngôi nhà ở dưới.

Ðức Phật dạy:

–Giống như người chèo thuyền trên dòng nước trong, họ đều thấy cá, đá ở trong nước. Ðức Phật dùng thiên nhãn xem thấy người trong thiên hạ, khi chết có kẻ lên thiên đường, có người xuống địa ngục như người nhìn vào nước trong thì thấy cá, đá ở trong đó.

Có một viên ngọc Minh nguyệt, dùng tơ năm màu mà xâu. Người nhìn viên ngọc đều thấy tơ năm màu xâu qua viên ngọc.

Ðức Phật dạy:

–Ta biết người trong thiên hạ, từ đâu mà đến, họ đều do thiện, ác biến hóa mà ra. Như người nhìn viên ngọc vậy.

Ðức Phật dạy:

–Ta thấy người trong thiên hạ, bất hiếu với cha mẹ, không thờ sa môn, đạo nhơn, không kính trưởng lão, không sợ những điều răn cấm của huyện quan, không sợ đời này đời sau, không kinh, không sợ, những người như vậy, khi chết liền đọa vào địa ngục. Họ cùng ra mắt với vua Diêm La, liền bỏ thiện theo ác. Có ngục tốt tên là Bàng. Bàng liền dẫn người ấy đến trước vua Diêm La. Ngục tốt Bàng tâu: “Người này lúc ở thế gian, bất hiếu với cha mẹ, không thờ sa môn, đạo nhân, không kính trưởng lão, không chịu bố thí, không sợ đời này đời sau, không sợ huyện quan. Xin Diêm La trị tội ác người này”.

Diêm La liền gọi người ấy đến trước nói rằng:

–Lúc làm người ở thế gian ngươi không nhớ công ơn cha mẹ nuôi nấng, tránh chỗ nóng, ở chỗ mát, nhờ bú mớm mà được khôn lớn. Tại sao ngươi lại bất hiếu với cha mẹ?

Người ấy thưa với Diêm La rằng:

–Tôi quả thật là người ngu si, kiêu mạn.

Diêm La bảo:

–Tội ác của ngươi chẳng phải do cha mẹ, chẳng phải do trời, chẳng phải do vua chúa, chẳng phải do sa môn, đạo nhân tạo ra, thân người đã tạo ra thì phải lãnh lấy. Ðó là lần hỏi thứ nhất.

Hỏi lần thứ hai:

–Ngươi có thấy, khi người bị bệnh, khốn khổ kịch liệt, ốm yếu gầy mòn, tay chân không cử động được chăng?

Người ấy thưa:

–Quả thật tôi có thấy như vậy.

Diêm La nói:

–Tại sao ngươi không tự cải hối để làm việc thiện?

Người ấy thưa:

–Quả thật tôi là người ngu si kiêu mạn.

Diêm vương nói:

–Tội này chẳng phải do trời, chẳng phải do cha mẹ, chẳng phải do vua chúa, chẳng phải do sa môn, đạo nhân tạo ra, chính thân người đã tạo ra, ngươi hãy lãnh lấy.

Diêm La hỏi lần thứ ba:

–Ngươi có thấy người nam, người nữ trong thế gian lúc già, mắt không thể thấy, tai không thể nghe, phải chống gậy mà đi, từ lúc râu tóc đen nhánh nay trở thành bạc phơ chẳng bằng lúc tuổi trẻ chăng?

Người ấy thưa:

–Tôi thật có thấy người già chống gậy mà đi.

Diêm La hỏi:

–Ngay lúc ấy, tại sao ngươi không tự cải hối để làm việc thiện?

Người ấy thưa:

–Quả thật tôi là người ngu si kiêu mạn.

Diêm La nói:

–Tội này chẳng phải do cha mẹ, chẳng phải do trời, chẳng phải do vua chúa, chẳng phải do sa môn, đạo nhân tạo ra, chính thân người đã tạo ra, ngươi phải thọ lấy.

Diêm La hỏi lần thứ tư:

–Khi ở thế gian, ngươi có thấy người nam, kẻ nữ lúc chết một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, thân thể hư nát, hình mạo bại hoại, bị trùng kiến ăn, bị mọi người ghê sợ. Ngươi có thấy việc ấy, tại sao ngươi không tự cải hối để làm việc thiện?

Người ấy thưa:

–Tôi có thấy việc ấy, quả thật tôi là người ngu si kiêu mạn.

Diêm La nói:

–Khi hành động sao ngươi lại không đoan chánh tâm, đoan chánh miệng, không đoan chánh hành vi của mình? Tội này chẳng phải do cha mẹ, do trời, vua chúa, do sa môn, đạo nhân tạo ra, chính thân người đã làm, ngươi phải thọ lấy.

Diêm Vương hỏi lần thứ năm:

–Khi làm người ở thế gian, ngươi có thấy quan lại khi bắt được người trộm cắp, kẻ sát nhân, kẻ cướp, trói lại tống vào ngục đánh đòn để xử trị, tra khảo chăng? Hoặc đem ra khỏi thành ở giữa đường mà giết đi chăng? Hoặc mổ phanh thây lúc còn sống. Vậy ngươi có thấy việc này chăng?

Người ấy thưa:

–Quả thật tôi có thấy việc ấy.

Diêm Vương nói:

–Tại sao ngươi lại không bố thí làm điều thiện? Khi làm người sao ngươi không làm hạnh chơn chánh, nói lời chân chánh, giữ tâm chân chánh?

Người ấy thưa:

–Tôi quả thật là người ngu si kiêu mạn.

Diêm Vương nói:

–Tội này cũng không phải do cha mẹ, do trời, do vua chúa, do sa môn, đạo nhân làm ra, chính thân người đã tạo ra, vậy ngươi hãy thọ lấy quả báo.

Khi đã tra hỏi xong, Nê Lê Bàng (Ngục tốt) liền dẫn tội nhân đi đến một thành bằng sắt. Ðó là địa ngục thứ nhất tên là A tỳ ma. Thành của địa ngục có bốn cửa, chu vi bốn ngàn dặm, bên trong có một cái nồi đồng lớn dài bốn mươi dặm. Nê Lê Bàng dùng chỉa đâm vào tội nhân rồi bỏ vào nồi đồng. Những nồi đồng như vậy nhiều vô số, bên trong cháy bừng bừng. Những tội nhân từ xa trông thấy thảy đều khiếp sợ kinh hoàng. Những người vào đó như vậy có đến mấy ngàn vạn, đều bị ngục tốt nhốt trong đó, ngày đêm cửa ngục đóng bít, không mở, nên không thể ra ngoài được. Tội nhân ở trong đó đến mấy ngàn vạn năm, nhưng lửa vẫn không tắt, con người cũng không chết. Một thời gian lâu xa về sau, từ xa trông thấy cửa phía Ðông tự mở, các tội nhân đều chạy đến để thoát ra ngoài, vừa chạy tới cửa, cửa liền đóng lại. Các người muốn ra ngoài, lại ở trong cửa cùng nhau đấu tranh muốn được ra ngoài. Một thời gian lâu xa về sau, từ xa trông thấy cửa phía Tây mở ra, các tội nhân đều chạy đến, nhưng cửa lại đóng, tội nhân ở trong cửa lại đấu tranh nhau. Một thời gian lâu xa nữa, bốn cửa thành lại mở ra, con người được ra ngoài, họ tự cho đã được thoát khỏi.

Họ lại đi vào trong địa ngục Cưu Diên thứ hai. Tội nhân vừa đặt chân xuống đất liền bị cháy tiêu, cất chân lên thì thịt lại liền như cũ, có người chạy qua Ðông cũ, có người chạy qua Tây cũ, có người chạy về Nam cũ, có người chạy về Bắc, chung quanh địa ngục đều bị lửa cháy, đến mấy ngàn vạn năm mới hết.

Những người ở trong đó tự cho là đã được thoát khổ, nhưng họ lại vào trong địa ngục Di Ly Ma Ðắc thứ ba. Ðịa ngục này có loài trùng tên là Khuất trác, mỏ như sắt, đầu chân đều đen. Từ xa trông thấy người chúng đều chạy đến bu quanh, rỉa hết xương thịt người ta. Như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm mới thôi.

Họ tự cho là đã thoát khỏi, lại liền vào trong địa ngục Sô La Ða thứ tư, trong đó có hòn núi đá bén như dao, mọi người đều chạy lên đỉnh núi, lại có người chạy xuống dưới núi đều muốn được thoát ra, nhưng họ không biết phải chạy hướng nào? Chân họ đều bị lột hết da, vì đất đá giống như dao bén. Như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm mới hết, con người tự cho là đã thoát khỏi.

Họ lại vào trong địa ngục A Di Ba Ða Hàng thứ năm. Ơû bên trong đó có gió nóng, khi đã vào đó rồi có tránh cũng không được. Những tội nhân trong đó cầu chết cũng không được, cầu sống cũng không xong. Như vậy thật lâu trải qua mấy ngàn vạn năm mới được thoát ra, những tội nhân trong đó tự cho là đã được thoát khỏi.

Họ lại vào trong địa ngục A Dụ Táo Ba Hằng thứ sáu. Trong địa ngục này đều có rất nhiều cây, chúng rất nhiều gai. Ở giữa trong những cây đó đều có qủy. Tội nhân vào trong ấy, trên đầu con qủy phun ra lửa, trong miệng khạt lửa, trên thân có mười sáu cây gai, từ xa trông thấy người nó hết sức phẫn nộ, lửa phun ra từ mười sáu cây gai này, chúng đâm qua thân thể con người làm cho rách ra để ăn thịt. Tội nhân đều chạy mong được thoát ra ngoài, trong khi chạy lại thường gặp qủy này. Như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm mới hết và được ra ngoài. Họ tự cho là đã thoát khỏi.

Họ lại vào trong địa ngục Bàn Tỷ Vụ thứ bảy. Trong đó có loài trùng tên là Thuần. Tội nhân vào trong ấy, bị loài trùng này bay đến, bay vào miệng người, ăn thân thể người. Tội nhân chạy rất gấp nhưng trùng ăn thịt người vẫn không để yên. Tội nhân đều chạy bốn hướng, muốn được thoát ra, nhưng không thể thoát khỏi. Như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm mới được thoát ra. Họ tự cho là đã thoát khỏi.

Họ lại vào trong địa ngục Ðọa Ðàn La Nê Du thứ tám. Trong đó có dòng nước chảy, mọi người bị rớt vào trong, hai bên bờ đều có gai nhọn, còn nước thì nóng hơn nước sôi ở nhân gian. Nước sôi sùng sục làm tội nhân đều bị chín nhừ. Họ muốn chạy lên trên bờ, trên ấy lại có quỷ cầm xà mâu đâm vào bụng tội nhân làm cho họ lại rớt vào trong đó, không thể thoát ra, họ đều bị trôi xuống cuối dòng, lại có quỷ chận lại dùng lưỡi câu mà móc, chúng quỷ hỏi rằng:

–Các ngươi từ đâu mà đến?

Nếu hỏi vậy, những ngươi kia đáp:

-Chúng tôi chẳng biết từ đâu đến, và cũng không biết sẽ đi về đâu; chúng tôi chỉ bị đói khát, muốn được ăn uống.

Quỷ đáp:

–Ta cho các ngươi ăn. Nó liền lấy móc câu móc hàm trên và hàm dưới ra, làm cho miệng tội nhân mở rộng, rồi lấy nước đồng chảy đổ vào miệng tội nhân, làm cho gan ruột cháy sạch. Những tội nhân như vậy, cầu chết không chết được, cầu sống không sống được. Những người ấy bình sanhthế gian, khi làm người, do làm nhiều điều hung ác, cho nên cầu thoát mà vẫn không thoát ra. Những người trong địa ngục đều được thoát ra ngoài, họ tự cho là đã được thoát, nhưng lại vào địa ngục thứ bảy. Quỷ hỏi ngược lại:

–Các ngươi đã đi tại sao trở lại ? Họ vào địa ngục thứ năm, lại trở vào địa ngục thứ tư, từ địa ngục thứ tư lại vào địa ngục thứ ba, lại vào ngục thứ hai, rồi trở lại vào địa ngục A tỳ ma thứ nhất? Ðến đó mọi người từ xa trông thấy thành sắt họ đều vui mừng hô lớn “muôn năm” Diêm Vương nghe tiếng hô ấy liền hỏi ngục tốt rằng:

–Ðó là những tiếng gì vậy?

Ngục tốt đáp:

- Ðó là tiếng hô của những người có tội ở trước đọa vào trong ngục.

Diêm La nói:

–Họ đều là những người bất hiếu với cha mẹ, không sợ trời, không sợ vua, không thừa sự sa môn, đạo nhân, không sợ cấm giới.

Diêm La liền bảo mọi người đến trước nói:

–Nếu các ngươi không oán trách lời nói của Diêm La, nay các ngươi đã được thoát khỏi địa ngục, sẽ lại làm con của người ta, phải hiếu thuận, phải tôn thờ người lớn tuổi, phải sợ những cấm giới của đế vương, phải thừa sự sa môn, đạo nhân, giữ tâm đoan chánh, miệng đoan chánh, thân đoan chánh. Con người lúc sống ở thế gian tạo tội nhỏ mà nhẹ, nhưng chết xuống địa ngục thì vừa lớn lại nặng. Khi gặp sa môn, đạo nhân, phải nên tuân theo, vâng thờ đạo của những vị ấy, sẽ chứng được A la hán, làm cho các đường địa ngục đều bị bít lấp.

Diêm La đã nói xong, các người ở trong địa ngục đều được thoát ra ngoài, họ lại bị chết hết ở vùng đất ngoài thành. Những người chết ấy, thân mạng đời trước, lúc làm người tuy ác nhưng có một chút điều thiện, cho nên từ trong địa ngục lại được ra ngoài, đều sanh ở đường lành. Con người từ trong địa ngục thoát ra đều tự giữ tâm chơn chánh, miệng chơn chánh, hạnh chơn chánh, cho nên không còn trở lại trong địa ngục nữa. Con người đã cảm nhận nỗi thống khổ, độc hại, xấu ác trong địa ngục rồi, họ đều tự tư duy để làm việc thiện.

Ðức Phật dạy:

–Con người chết vào địa ngục, dù cho vương hầu, sa môn, đạo nhân cũng phải tương kiến với Diêm La mà thôi. Còn bao nhiêu người khác chỉ theo mọi người mà vào địa ngục. Diêm La là tên của vị vua ở địa ngục vậy.

 

PHẬT NÓI KINH THIẾT THÀNH NÊ LÊ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14849)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11918)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12830)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10419)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12139)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15360)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11171)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10614)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12534)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16517)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14394)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11862)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14878)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12114)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16945)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11640)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12796)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11417)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12147)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52347)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15559)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14049)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11496)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13247)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12864)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13314)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18003)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12533)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12731)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54304)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14493)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9997)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13885)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58165)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14574)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20243)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13873)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15484)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17589)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13371)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11965)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13551)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14722)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12556)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12198)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12121)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13344)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12611)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13717)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13389)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25714)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12233)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14627)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11915)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42146)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28432)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38908)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14789)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12779)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16323)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant