Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Pháp Đúng, Pháp Sai

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13905)
Kinh Pháp Đúng, Pháp Sai


PHẬT NÓI KINH PHÁP ÐÚNG, PHÁP SAI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0048 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Sa môn An Thế Cao

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy: Một thời Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn Ông Cấp cô độc, nước Xá vệ.

Bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng”. Các Tỳ kheo theo đức Phật để nghe dạy.

Ðức Phật dạy: “Các Tỳ kheo hãy lắng nghe ta nói. Có pháp hiền giả, cũng có pháp phi hiền giả. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe cho kỹ, biết cho rõ, suy nghĩ điều này thật kỹ.

Các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng!”. Theo Phật để thọ giáo. Ðức Phật nói rằng: “Này Tỳ kheo! Những gì là pháp phi hiền giả ? Nếu Tỳ kheo thuộc dòng dõi quý tộc, thích đạo, muốn học đạo, nếu có các Tỳ kheo khác đồng học nhưng không phải dòng dõi quý tộcTỳ kheo dòng dõi quý tộc tự kiêu đối với bản thân mình, khinh chê người khác. Ðó là pháp phi hiền giả.

Những gì là pháp hiền giả ? Vị hiền giả nên học thấy chính ta không phải dòng họ tôn quý mà có khả năng đoạn tham dục, đoạn trừ sân hận, đoạn trừ ngu si. Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không phải nhà thuộc dòng họ tôn quý (thuyết pháp), ta chỉ cần nương vào phương tiện để thọ pháp, theo pháp mà nói, theo điều cốt tủy của chánh phápthực hành, tùy thuận pháp mà thực hành. Nhờ theo vị danh đức ấy để nghe pháp như pháp mà hành tùy thuận chơn thật pháp, không tự khen mình, cũng không khinh người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo nhan sắc hết sức đoan chánh, các Tỳ kheo khác không bằng, do mình đoan chánh cho nên tự khen mình chê người. Ðó không phải là pháp hiền giả. Bậc hiền giả thì không như vậy. Bậc hiền giả không tự chấp vào sắc đoan chánh của mình mà có thể đoạn trừ được tham, dâm, có thể đoạn được sân hận, có thể đoạn được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo tuy không đoan chánh (thuyết pháp), ta chỉ theo pháp ấy hoặc nhiều hay ít, thọ trì, thực hành, liền được ngợi khen, có tiếng. Vậy ta hãy thọ pháp ấy một cách chắc chắn, tùy theo pháp mà hành, không tự khen mình, cũng không chê người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo khéo nói những lời hay đẹp, còn các Tỳ kheo khác thì không nói được như vậy. Vị ấy nhân khéo nói được những lời hay đẹp nên tự khen mình chê người. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Vị hiền giả học rằng chính ta không phải nhờ lời nói hay đẹp, cũng không phải nhờ biết nói những lời hay đẹp mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si.

Hoặc có vị Tỳ kheolời nói không hay đẹp, lại cũng không khéo nói, nhưng chỉ như pháp thọ giáo, hoặc tùy hành nhiều hay ít, nhờ việc làm đó được cung kính, làm như vậy được đa văn. Vị ấy với pháp này, nhờ thọ trì pháp, thực hành chắc thật, không tự khen mình chê người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ nghe có một vị Tỳ kheo lớn tuổi, có nhiều tri thức, là bạn hữu giàu có, còn các Tỳ kheo khác thì không bằng. Vị ấy liền theo vị Tỳ kheo lớn tuổi có nhiều tri thức ấy, rồi tự khen mình, tự kiêu ngạo và khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Bậc hiền giả chỉ suy nghĩ, học hỏi rằng “Chính ta không hẳn nhờ theo vị lớn tuổi, cũng không phải nhờ có nhiều tri thức, cũng không nhờ theo người có nhiều phước đức mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo còn nhỏ, cũng không có nhiều tri thức, phước đức cũng ít ỏi, nhưng thọ pháp, muốn tùy pháp hành, hoặc nhiều hay ít, nhờ đó được có tiếng tăm. Vị ấy theo pháp, tùy pháp chơn thật nhưng không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo biết nghe kinh, có thể thuyết kinh, biết luật, biết rõ và thâm nhập kinh, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Vị ấy nhờ thâm nhập, thông suốt kinh nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó chẳng phải là pháp hiền giả. Bậc hiền giả thì không như vậy. Hiền giả nên học như vầy: “Chính ta không phải nhờ thâm nhập, cũng không phải nhờ thông suốt kinh điển mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không có thâm nhập, cũng không có thông suốt kinh điển, chỉ thọ pháp, tùy pháp, chánh cần, tùy pháp hành, nên nhờ đó mà được cung kính, nhờ đó mà được tiếng tăm. Ðó là nhờ trì pháp, tùy pháp, thực hành điều chơn thật, cho nên vị ấy không tự khen mình, không tự kiêu ngạo, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo cầu khất thực, không nhờ các bạn hữu để cầu khất thực, không quá bảy nhà, ngồi một chỗ, ngày ăn một bữa, sau đó ai cúng cũng không nhận. Còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Do ngày ăn một bữa, sau đó có cúng cũng không nhận, rồi tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả cần phải học: “Ta không hẳn theo hạnh ngày ăn một bữa, sau đó có cúng cũng không nhận mà có thể đoạn trừ được tham dục, đoạn trừ được sân hận, đoạn trừ được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không theo hạnh ngày ăn một bữa, sau đó có cúng không nhận. Vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp chơn chánh tiếp nhận tùy pháp, nhờ đó được cung kính, nhờ đó được tiếng tăm, pháp này tùy pháp chơn thật, nhưng vẫn không tự khen mình, không tự kiêu ngạo, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo dùng ba y ở nơi gò mả, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Nhờ danh tiếng ấy nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó chẳng phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Không hẳn ta nhờ dùng ba y này mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc có Tỳ kheo không dùng ba y này, nhưng vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp, chơn chánh tiếp thọ tùy pháp, nhờ đó liền được cung kính, được tiếng tăm. Nhờ pháp này, tùy thuận pháp chơn thật, nhưng vị ấy không tự khen mình, không tự kiêu mạn, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo ở nơi đất trống hay ở dưới gốc cây, hoặc ở đầm vắng, giữa gò mã, để ngọa cụ nơi đó, còn các Tỳ kheo khác thì không như vậy. Do đó vị ấy tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Không hẳn ta nhờ để ngọa cụ ở nơi đất trống dưới gốc cây, đầm vắng, giữa gò mã mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc có Tỳ kheo không có những điều nói trên, nhưng vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp, chơn chánh tiếp thọ tùy pháp, nhờ đó liền được cung kính, được tiếng tăm. Nhờ pháp này, tùy pháp chơn thật, nhưng vị ấy không tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo đã được đệ nhất thiền, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Vì được đệ nhất thiền nên vị ấy tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Ðệ nhất thiền, đức Phật dạy, phải tự mình biết điều ấy, thọ trì pháp chơn thật ấy, không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo được đệ nhị thiền, hoặc được đệ tam thiền, hoặc được đệ tứ thiền, như đã nói về đệ nhất thiền. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo hiểu Không hành ý, hoặc có lúc hiểu Thức hành ý, hoặc có lúc hiểu Phi thường hành ý, hoặc có lúc hiểu Vô hữu tư tưởng hành ý, hữu tư tưởng hành ý. Còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Nhờ đó được tư tưởng vô hữu tư tưởng hành nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Vô hữu tư tưởng hành, cũng như hữu tư tưởng hành, đức Phật dạy ta có cái này, thọ pháp, tùy pháp chơn thật nên không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Ðức Phật bảo: “Này các Tỳ kheo! Ta đã nói về pháp hiền giả, cũng nói pháp không phải hiền giả. Các Tỳ kheo hãy nên tự tư duy. Ðối với pháp không phải hiền giả cũng nên tư duy. Hãy thực hành pháp hiền giả, xả bỏ pháp không phải hiền giả. Hãy thọ hiền giả, tùy pháp, Tỳ kheo nên học như vậy.

Ðức Phật dạy như vậy. Chư Tỳ kheo tiếp thọ và chí tâm hành trì.

 

PHẬT NÓI KINH PHÁP ÐÚNG, PHÁP SAI

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27969)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 29086)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 29573)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 28587)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 33504)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 21760)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 24702)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 31998)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 23268)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 22117)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 24191)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 22199)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 32610)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 30361)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 36986)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 46050)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 37722)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 23990)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 22739)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 22057)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 26337)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 40241)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 20490)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 20751)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 24073)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 22245)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 31411)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 37378)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 30119)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 33945)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 27755)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 30671)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 45038)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 36774)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 46384)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 39993)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 22492)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 44344)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 50658)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 42101)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 55705)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 38102)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 42090)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 51171)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 49489)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 30021)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 28229)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 28584)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 25192)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 22076)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 35480)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 23925)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 26622)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 27360)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 24325)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 23800)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 23133)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 24668)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 22615)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 31088)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM