Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12491)
Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn


PHẬT NÓI KINH ÁT BA LA DIÊN VẤN CHỦNG TÔN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0071 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông Tấn, Sa Môn Trúc Ðàm Vô Lan

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, nước Xá vệ. Lúc ấy có năm trăm Tỳ kheo cùng câu hội.

Bấy giờ trong thành Xá vệ có năm trăm người Bà la môn, năm trăm người này cùng nhau ra khỏi thành, tự đến ngôi nhà tranh của họ ở ngoài đồng, cùng nhau ngồi xuống, bàn luận rằng:

–Lúc con người có mặt đầu tiên trên quả địa cầu thì đều là dòng Bà la môn của chúng ta, dòng Sát lợi là thứ hai, dòng Ðiền gia là thứ ba, dòng Công sư là thứ tư. Dòng Bà la môn lúc mới sơ sanh, sanh ra từ miệng của Phạm thiên, người đời nay ngược lại, sanh ra ở phía dưới. Như vậy ở trong thiên hạ, dòng dõi chúng ta là tối tôn. Dòng dõi chúng ta đều là con cháu của Phạm thiên thứ bảy. Nhưng đức Phật thì nói ngược lại, là thiên hạ chỉ có một chủng loại. Ðức Phật cho rằng dòng dõi chúng ta cùng Sát lợi, Ðiền gia, Công sư đều bình đẳng. Dòng dõi chúng ta khi chết đều được sanh lên Phạm thiên. Ngược lại thì đức Phật cho dòng dõi của chúng ta cùng với người phàm giống nhau.

Họ cùng nhau bàn luận rằng:

–Ai có thể giảng giải, phân biệt về chủng loại cùng đức Phật được?

Bấy giờ có một người con của Bà la môn, tuổi mới mười lăm, mười sáu, tên là Át Ba La Diên Ðại Thánh, biết rõ các việc thợ thuyền, sách vở, biết phương hướng đến. Trong năm trăm Bà la môn không ai có thể sánh bằng, các bậc thầy đều thờ kính. Vị ấy có thể nói kinh, biết việc thiên hạ. Thân thể của Ðại thánh Át Ba La Diên có tướng kỳ đặc.

Các Bà la môn cùng nhau bàn luận rằng:

–Chỉ có Át Ba La Diên mới có thể đàm luận cùng đức Phật được. Chúng ta thì không thể cùng đàm luận với đức Phật.

Năm trăm người Bà la môn cùng nhau bảo Át Ba La Diên rằng:

–Ðức Phật cho rằng người trong thiên hạ chỉ có một chủng tánh. Dòng họ chúng ta cùng Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư khác nhau. Dòng họ chúng ta từ Phạm thiên đến, sanh từ miệng Phạm thiên, nhưng nhơn sanh đời này lại sanh ra ở phía dưới. Ðức Phật nói: “Thiên hạ có bốn chủng tánh, bốn chủng tánh này đều tốt như nhau”. Mong Át Ba La Diên tự hạ cố cùng đi với chúng tôi đến chỗ đức Phật để cùng nghị luận.

Át Ba La Diên nói rằng:

–Ðức Phật là người nắm giữ chánh đạo, có thể đáp ứng theo chánh đạo. Nếu muốn đem chủng tánh Bà la môn đến để hỏi thì được. Chớ không ai có thể bàn chánh đạo với Ngài được.

Năm trăm Bà la môn đều nói:

–Chúng ta tôn thờ Át Ba La Diên làm thầy, sao lại không đến bàn luận với đức Phật về bốn chủng tánh này?

Họ nói với nhau như vậy đến hai, ba lần nên Át Ba La Diên liền đứng dậy, cùng năm trăm Bà la môn đi đến rừng cây Kỳ Ðà, nơi đức Phật đang ngụ. Tôn giả A Nan bạch đức Phật:

–Có người con của Bà la môn tên là Át Ba La Diên, tuổi mới mười lăm, mười sáu, cùng đi với năm trăm Bà la môn đến ở bên ngoài.

Ðức Phật bảo: –Hãy mời vào.

Tôn giả A Nan đi ra mời Át Ba La Diên vào. Át Ba La Diên cùng năm trăm Bà la môn đồng đứng, không đảnh lễ đức Phật, tự nói rằng:

–Tôi có chút việc muốn hỏi đức Phật.

Ðức Phật bảo: –Hãy ngồi xuống.

Át Ba La Diên bạch đức Phật:

–Tôi có điều muốn hỏi, ngài có cho phép chăng?

Ðức Phật nói:

–Nếu có điều gì nghi thì cứ hỏi.

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Các Phạm chí nói: “Dòng tộc chúng tôi khác với dòng tộc Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư, rằng dòng tộc chúng tôi là con cháu của Phạm thiên. Tiên tổ của chúng tôi lúc sơ sinh đều sanh từ miệng Phạm thiên, khi chết đều sanh lên trời”.

Ðức Phật nói:

–Trong kinh của ta không cho rằng các chủng loại khác nhau. Nếu như người Bà la môn lấy con gái của Sát lợi, con gái của Sát lợi sẽ sanh con, người Sát lợi lấy con gái của Ðiền Gia, con gái của Ðiền Gia sẽ sanh con, người Ðiền Gia lấy con gái của Công Sư, con gái của Công Sư sẽ sanh con, người Công Sư lấy con gái của Bà la môn, con gái của Bà la môn sẽ sanh con.

Ðức Phật nói:

–Trong kinh của ta lấy hành động làm gốc. Nếu có hành động tốt đó là dòng dõi tối thượng. Những người được thiên hạ tôn quý đều do hành động thiện mà ra, chứ không phải do dòng dõi. Trong vô số kiếp về trước, ta cũng sanh làm con của người Bà la môn, cũng sanh làm con của người Sát lợi, cũng sanh làm con của Ðiền Gia, cũng sanh làm con của Công Sư, cho đến làm con của vua. Nay thân ta làm Phật.

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên:

–Ta hỏi ngươi một việc. Hãy như sự thật trả lời.

Ðức Phật nói:

–Hoặc thấy người thế gian sanh làm con của nhà lành, trở lại đi ở cho người ta. Con của người ở trở lại làm chủ chăng?

Át Ba La Diên bạch đức Phật:

–Tôi nghe trong nước Nguyệt Chi có điều này.

Ðức Phật nói:

–Vì lý do gì mà con của nhà lành trở lại đi ở, con người đi ở trở lại làm chủ? Ðó là vì tâm chí của kẻ nô tỳ làm điều thiện nên người ta cho làm con. Còn con mình mà phải làm nô tỳ là vì tâm chí nó làm điều ác vậy, nên tự bán cho người khác để làm nô tỳ vậy.

Át Ba La Diên thưa:

–Nếu Ngài nói con người có chủng loại như vậy, thế thì dòng dõi con người từ đâu sanh ra?

Ðức Phật nói:

–Nếu bốn chủng tánh là: Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, và Công Sư đều ưa sát sanh, ưa trộm cắp, ưa dâm dục, ưa nói hai lưỡi, ưa nói lời độc ác, ưa nói dối, ưa dèm pha, thích sống chung với người ngu si, thích sân hận, thích cúng tế ... làm những hành vi như vậy, có đọa vào trong địa ngục chăng?

Át Ba La Diên nói:

–Dòng dõi Bà la môn cho rằng: tuy có làm các điều ác đó nhưng chủng loại ta vẫn là tối tôn, là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng của Phạm thiên, lúc chết đều được sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Nếu có người dòng Bà la môn, Sát Lợi, Ðiền Gia, và Công Sư không có tâm sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói dối, không có tâm ưa thích sàm tấu người khác, không có tâm thích sống chung với người ngu si, không có tâm thích sân hận và cúng tế. Những người như vậy sau khi chết há không sanh lên trời chăng?

Át Ba La Diên nói:

–Ðúng như vậy, tất cả đều sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Nếu bảo chủng loại thì nó từ đâu mà có?

Ngài nói:

–Loài người đều do tâm ý thức sanh ra. Nếu tâm ý thức làm điều tốt thì được sanh lên trời, sanh ở nhơn gian. Nếu tâm ý thức mà xấu thì sanh vào loài trùng, thú, súc sanh, quỷ thần, địa ngục. Nếu có người dòng Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư làm điều ác đều phải sanh vào trong ba ác đạo. Như vậy thì dòng dõi do đâu mà ra? Người dòng Bà la môn cũng có làm điều thiện, điều ác, người Sát đế lợi cũng có làm điều thiện, điều ác, người Ðiền Gia cũng có làm điều thiện, điều ác, người Công Sư cũng có làm điều thiện, điều ác. Nếu tự nói rằng có chủng tộc, vậy chủng tộc ở chỗ nào? Nếu người Bà la môn đem lòng oán ghét hư không, người Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư cũng đem lòng oán ghét hư không, đâu có thể làm hư không bị tổn thương? Theo ý đó biết rằng: chỉ có Bà la môn tự ôm lòng cống cao trên thế gian này mà thôi. Người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư vào trong khe nước lớn để tắm, ai cũng có thể tắm sạch các cáu bẩn ở trong nước, ai có thể phân biệt được đâu là cấu uế của Bà la môn, cấu uế của Sát lợi, cấu uế của Ðiền Gia, cấu uế của Công Sư?

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Cấu uế ở trong khe nước lớn.

Ðức Phật nói:

–Nên biết cấu uế ở chỗ nào. Nếu vẫn không biết cấu uế của con người, trở lại nói rằng: “Chủng tánh của ta vốn ở trên trời, sanh ra từ miệng Phạm Thiên, còn những chủng tánh khác đều sanh ra ở dưới, dòng dõi chúng ta là tôn quý nhất trong loài người”.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, nếu có vị quốc vương nghe nói nước nào, quận nào, huyện nào, làng xóm nào có Bà la môn và con của Bà la môn cao minh, có Sát lợi và con của Sát lợi cao minh, có Ðiền Gia và con của Ðiền Gia cao minh, có Công Sư và con của Công Sư cao minh, nhà vua liền triệu tất cả về để làm vương thần, nhà vua có hỏi chủng tánh của người ấy không? Nếu người có cao tài minh đạt thì nhà vua liền cấp cho quận, nước tốt. Sao vua lại không hỏi chủng loại kẻ ấy? Nếu ngươi có nói chủng loài thì này Át Ba La Diên, nó giới hạn ở chỗ nào? Từ chỗ ngồi của các trưởng lão, phía trước các trưởng lão là năm trăm người, sao lại không tra hỏi đâu là chủng loại? Ðâu là tác sư? Nếu có chủng loại Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư và các chủng loại khác, khi lạnh thì đều đến bên đống lửa lớn. Lửa nóng đâu có sưởi ấm dành cho một chủng loại nào, hơi ấm đều bình đẳng với mọi chủng loại. Nếu có một chiếc thuyền đi trên nước, người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, hay Công Sư đều ở trên thuyền, thuyền đâu có riêng chở cho người Bà la môn, cũng đâu có riêng chở các chủng loại khác?

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên:

–Nếu con của người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư và con của các chủng loại khác, thảy đều phải ở trong bào thai mười tháng, có thêm có bớt chăng?

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Tất cả đều phải ở trong bào thai mười tháng không thêm không bớt.

Ðức Phật nói:

–Tại sao các ngươi cho rằng: dòng dõi của mình là con cháu của Phạm Thiên sanh ra từ miệng Phạm Thiên? Dòng Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư cũng như các chủng loại khác. Mặt trời, mặt trăng sao lại không riêng chiếu cho một chủng loại nào? Sao lại chiếu hết các chủng loại?

Át Ba La Diên thưa:

–Chủng loại của tôi tự cho rằng chủng loại của mình hơn các chủng loại khác.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, nếu con lừa cha lấy ngựa mẹ, sanh con thì gọi là gì?

Át Ba La Diên thưa: –Gọi nó là la.

Ðức Phật bảo:

–Cha cũng không gọi là la, mẹ nó cũng không gọi là la, vậy sao gọi nó là la?

Át Ba La Diên nói:

–Bởi vì tiên tổ chúng tôi gọi nó là la, nên chúng tôi cũng gọi là la.

Ðức Phật hỏi:

–Nếu con ngựa là cha, lấy con lừa là mẹ, sanh con sao gọi nó là cự lư? Vì cha nó cũng không có tên là cự lư, mẹ nó cũng không có tên cự lư, tại sao biết nó là cự lư?

Ðáp rằng:

–Vì tiên tổ chúng tôi gọi nó là cự lư, nên chúng tôi cũng gọi là cự lư.

Ðức Phật hỏi:

–Nếu người Bà la môn lấy vợ là con gái của Sát lợi, người con gái của Sát lợi lúc sanh con, gọi nó là gì? Nên gọi nó là dòng dõi Bà la môn hay Sát lợi?

Át Ba La Diên thưa:

–Con chẳng biết nó thuộc chủng loại nào?

Ðức Phật nói:

–Nếu không tự biết chủng loại, sao gọi nó là la, là cự lư? Nếu người nữ là Sát lợi lấy chồng là Bà la môn, sanh con, khi đã sanh vào nhà này, tùy theo sự tế tự, tùy theo chủng loại, đứa bé ấy về sau thành bậc cao minh, các ngươi có thừa sự chỗ xuất sanh ấy chăng?

Thưa rằng: –Chúng tôi thừa sự.

–Nếu người Bà la môn lấy vợ là Ðiền Gia, người nữ Ðiền gia sanh con, nhưng đứa con ấy có tâm sát sanh, trộm cắp, dâm dật, nói hai lưỡi, nói lời ác độc, sân hận, có tâm cúng tế. Người có những hành vi ấy, các ngươi có tương tùy với người ấy chăng?

Thưa rằng:

–Chúng tôi không tương tùy với đứa con có tâm ý thức làm việc ác ấy. Chúng tôi sẽ trục xuất kẻ ấy ra khỏi dòng họ chúng tôi.

Ðức Phật nói:

–Nếu các ngươi tự cho rằng: Chúng ta là con cháu của Phạm Thiên, sanh ra từ miệng của Phạm Thiên, khi chết được sanh lên trời, sao các ngươi chỉ thấy tâm ý thức của kẻ ấy làm ác liền trục xuất họ ra ngoài? Tại sao các ngươi lại nói chủng loại?

Ðức Phật nói:

–Nếu có Bà la môn có sự bất hiếu với cha mẹ, thích sát sanh, trộm cướp, làm mười điều ác, lúc chết người ấy sẽ đi về đâu?

Át Ba La Diên nói:

–Người mà tâm ý thức làm những việc như vậy, lúc chết phải nhập vào địa ngục.

Ðức Phật nói:

–Nếu ngươi nói: dòng họ của ta vốn từ Phạm Thiên, sanh ra từ miệng Phạm Thiên, là tối tôn trong loài người, sao lại sanh trong địa ngục được?

Ðức Phật nói:

–Con người trong thiên hạ không có chủng loại, không có thường tồn. Bậc cao minh nhờ tâm ý chí thiện, làm điều tốt đẹp, đó là bậc tôn quý. Còn tâm ý của người làm điều ác, đó là kẻ hạ tiện.

Át Ba La Diên tự suy nghĩ: “Ta vốn không muốn đến đây, do mọi người đều bảo ta đến”. Rồi tự tư duy: “Ý của ta không muốn tranh luận với đức Phật”. Ta còn nói tiếp: “Ðức Phật là bậc chánh đạo, đức Phật nói: Nếu trước đây nói chủng loại con người thay đổi, nay lại nói rằng: tâm ý chí tốt”.

Át Ba La Diên tự suy nghĩ: “Lời của đức Phật ngăn chặn ta trước và sau”.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, vào kiếp quá khứ có bảy Bà la môn đều có đạo hạnh, ngày ngày cúng tế trời. Bảy Bà la môn này cũng nói rằng: Ta là con cháu của Phạm Thiên, chúng ta cũng sanh từ miệng Phạm Thiên, còn kẻ phàm nhơn thì sanh ở dưới. Chủng loại của ta lúc chết được sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Lúc đó ta cũng là đạo nhân tên A Tuất. Mọi người đều nói: Ðạo của ta là thiện đạo. Lúc ấy ta thấy bảy Bà la môn đều đứng trước ngọn lửa đền thờ. Các Bà la môn đều nói: Chúng ta lúc chết sẽ rực sáng như ngọn lửa này ở trên trời.

Ðức Phật nói:

–“Ðể ta xem bọn người này làm gì?”. Ta tự biến đổi thân thể, tay cầm lá cờ có chuôi lông bằng vàng ròng, thân mặc đồ trắng, đi theo người trên chiếc xe giả, đến chỗ bảy Bà la môn ấy. Khi ấy bảy Bà la môn đang đi kinh hành, và cả nhóm trông thấy ta, gọi ta là “Người hành đạo Bà la môn từ đâu đến đây?”. Bảy Bà la môn nói: “Nếu ngài là Thiên đạo, xin hãy nói tóm lược cho chúng tôi: sao lại mặc y đẹp, cỡi xe, tay cầm cờ vàng rực rỡ. Ngài từ đâu sanh ra và muốn đi về đâu? Từ đâu đến? Và sao lại đến chỗ này?”.

Lúc ấy ta làm thinh không trả lời. Bọn họ thấy ta không nói, nên tất cả đều nổi giận, liền dùng thần chú đối với ta, muốn khiến cho ta đứng mà chết. Họ dùng thần chú đối với ta mà sắc mặt của ta lại đẹp. Bọn họ lại đọc chú, sắc mặt của ta lại càng thêm đẹp. Bảy Bà la môn ấy hết sức khinh hãi, nói rằng: “Những người bị chúng ta đọc chú đều chết cả, nhưng nay chúng ta đọc chú người này mà sắc mặt y lại càng đẹp hơn”.

Lúc ấy họ lại gọi “A Tuất”, tự nghĩ rằng: “Ngươi muốn về đường nào?”.

A Tuất liền đáp: “Ý của đạo chúng tôi hơn tất cả. Tại sao các ngươi nổi giận? Vậy các ngươi có nghe A Tuất nói về Thiên đạo chăng?”.

Bọn họ nói: “Chúng tôi không nghe”.

A Tuất nói: “Này hiền giả, bậc đạo nhân gặp nhau, cùng nhau thăm hỏi, sao lại tức giận?”.

A Tuất bảo: “Ta nghe các Phạm chí nói rằng: các Bà la môn trong thiên hạ là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, độc tôn trong loài người. Do vậy nên ta đến hỏi các ngươi: Nếu đốt lửa này để cúng trời, nếu thờ trời đúng như pháp thì có vị thầy nào nói ra chăng? Ðiều đó cũng không nghe tổ tiên nói ra”.

Bảy Bà la môn nói: “Tổ tiên chúng tôi làm, nên chúng tôi bắt chước”.

A Tuất đạo nhân nói: “Vậy tổ mẫu của các ngươi là con gái của Bà la môn, hay con gái của dòng họ khác?”.

–Chúng tôi không biết tổ mẫu của chúng tôi là con gái của Sát lợi, con gái của Ðiền Gia hay con gái của Công Sư. Chúng tôi không biết tiên tổ mẫu của chúng tôi có phải do người Bà la môn sanh ra hay không, hoặc các vị ấy yêu thương người khác sanh ra chủng loại chúng tôi.

A Tuất nói: “Nếu đã không biết tổ tiên, sao lại nói tổ tiên các người từ Phạm thiên sanh? Tâm lý của người nữ không có gì bảo đảm. Nếu các ngươi biết được người thế gian, vậy vợ chồng giao hợp làm sao để sanh con?”.

Bọn họ đều nói: “Chúng tôi không biết”.

–Nếu các ngươi đã không biết tổ tiên, cũng không biết con người từ đâu sanh ra, vậy sao lại sân hận ta? Phàm con người gặp nhau, trước hết phải hỏi thăm để biết cao thấp, phải biết ý chí của con người ấy rồi mới tức giận, tại sao trước tiên lại giận? Nếu biết con người lúc đầu nhập vào bào thai trong bụng mẹ, nếu không phải do lòng tham dâm của người cha, thì cũng do tâm ái dục của người mẹ mới sinh ra con. Hội đủ ba điều kiện ấy mới thành con. Ðã làm con, ai khiến cho thân trung ấm gặp cha mẹ để thành con? Ðứa con ở trong bụng mẹ hoặc đời trước làm ác thì nay ở trong bụng mẹ hoặc bị mù, hoặc bị điếc, hoặc bị ngọng, hoặc bị gù, hoặc bị kiễng chân, hoặc thành kẻ hư ác mà cha mẹ đều không biết rõ. Cha mẹ mang con ở trong bụng mà còn không biết được con mình là đẹp hay xấu thay, thì các ngươi làm sao biết được tiên tổ các ngươi là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiênđộc tôn trong loài người?

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên: “Ở đời trước, bảy Bà la môn này có thể chú thuật giết người. Lúc đó ta không chấp nhận lời họ nói và sách họ chép. Nay ta đã thành Phật, họ lại đến nói với ta: họ là con cháu Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, độc tôn trong loài người”.

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên: “Hãy suy nghĩ điều ta nói: Thiên hạ sanh con nuôi lớn nhờ cha mẹ, thành người là nhờ thầy”.

Bà la môn Át Ba La Diên cùng năm trăm Bà la môn và các Bà la môn khác đồng suy nghĩ.

Ðức Phật nói: “Thời trước ta còn làm thầy của bảy Bà la môn. Bảy Bà la môn này là người đạo đức, có thể dùng chú thuật giết người. Nay ta phải phân biệt nói ra. Con người có chủng loại, một thành ra trăm, trăm thành ra ngàn, ngàn thành ra vạn, vạn cũng là một”.

Át Ba La Diên cùng các Bà la môn đồng đến phía trước, lấy đầu mặt lạy dưới chân đức Phật, nói rằng: “Chúng con không rõ một thành trăm, trăm thành ngàn, ngàn thành vạn, vạn cũng từ một là ý nghĩa gì?”.

Ðức Phật nói: “Ðó là người thế gian tham đắm sanh tử rất nhiều. Một người sanh con cháu, sau đó phân ra thành một trăm nhà, trăm nhà cầu đạo thì chỉ một đạo. Sao gọi là một đạo? Ðó là đạo vô vi vậy. Như vậy là một thành ngàn, ngàn thành vạn”.

Át Ba La Diên đến phía trước đức Phật, quỳ xuống thưa rằng: “Xin Ngài hãy thương xót chúng con, như Ngài thương các Sa môn, đừng có tâm tức giận đối với chúng con. Chúng con xin trở về cùng nhau kiểm điểm”.

Ðức Phật nói: “Lành thay!”.

–Sáng mai chúng con nguyện tịnh tâm.

Tất cả đều đứng dậy đầu mặt lạy dưới chân đức Phật rồi đi ra. 

 

PHẬT NÓI KINH

ÁT BA LA DIÊN PHẠM CHÍ VẤN CHỦNG TÔN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28967)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19445)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30502)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36429)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33234)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35570)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20990)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21924)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25799)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31266)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18565)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25145)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23774)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28943)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20867)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25552)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29724)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22527)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25723)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23286)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25748)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23726)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40616)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22453)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22101)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23511)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16971)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23289)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24316)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41108)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18995)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20493)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27729)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38126)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34079)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36788)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24004)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29195)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60161)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68749)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24537)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24501)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22716)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26362)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26550)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20825)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20065)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27555)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46442)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53586)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23617)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25580)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29269)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188996)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant