Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12496)
Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn


PHẬT NÓI KINH ÁT BA LA DIÊN VẤN CHỦNG TÔN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0071 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông Tấn, Sa Môn Trúc Ðàm Vô Lan

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, nước Xá vệ. Lúc ấy có năm trăm Tỳ kheo cùng câu hội.

Bấy giờ trong thành Xá vệ có năm trăm người Bà la môn, năm trăm người này cùng nhau ra khỏi thành, tự đến ngôi nhà tranh của họ ở ngoài đồng, cùng nhau ngồi xuống, bàn luận rằng:

–Lúc con người có mặt đầu tiên trên quả địa cầu thì đều là dòng Bà la môn của chúng ta, dòng Sát lợi là thứ hai, dòng Ðiền gia là thứ ba, dòng Công sư là thứ tư. Dòng Bà la môn lúc mới sơ sanh, sanh ra từ miệng của Phạm thiên, người đời nay ngược lại, sanh ra ở phía dưới. Như vậy ở trong thiên hạ, dòng dõi chúng ta là tối tôn. Dòng dõi chúng ta đều là con cháu của Phạm thiên thứ bảy. Nhưng đức Phật thì nói ngược lại, là thiên hạ chỉ có một chủng loại. Ðức Phật cho rằng dòng dõi chúng ta cùng Sát lợi, Ðiền gia, Công sư đều bình đẳng. Dòng dõi chúng ta khi chết đều được sanh lên Phạm thiên. Ngược lại thì đức Phật cho dòng dõi của chúng ta cùng với người phàm giống nhau.

Họ cùng nhau bàn luận rằng:

–Ai có thể giảng giải, phân biệt về chủng loại cùng đức Phật được?

Bấy giờ có một người con của Bà la môn, tuổi mới mười lăm, mười sáu, tên là Át Ba La Diên Ðại Thánh, biết rõ các việc thợ thuyền, sách vở, biết phương hướng đến. Trong năm trăm Bà la môn không ai có thể sánh bằng, các bậc thầy đều thờ kính. Vị ấy có thể nói kinh, biết việc thiên hạ. Thân thể của Ðại thánh Át Ba La Diên có tướng kỳ đặc.

Các Bà la môn cùng nhau bàn luận rằng:

–Chỉ có Át Ba La Diên mới có thể đàm luận cùng đức Phật được. Chúng ta thì không thể cùng đàm luận với đức Phật.

Năm trăm người Bà la môn cùng nhau bảo Át Ba La Diên rằng:

–Ðức Phật cho rằng người trong thiên hạ chỉ có một chủng tánh. Dòng họ chúng ta cùng Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư khác nhau. Dòng họ chúng ta từ Phạm thiên đến, sanh từ miệng Phạm thiên, nhưng nhơn sanh đời này lại sanh ra ở phía dưới. Ðức Phật nói: “Thiên hạ có bốn chủng tánh, bốn chủng tánh này đều tốt như nhau”. Mong Át Ba La Diên tự hạ cố cùng đi với chúng tôi đến chỗ đức Phật để cùng nghị luận.

Át Ba La Diên nói rằng:

–Ðức Phật là người nắm giữ chánh đạo, có thể đáp ứng theo chánh đạo. Nếu muốn đem chủng tánh Bà la môn đến để hỏi thì được. Chớ không ai có thể bàn chánh đạo với Ngài được.

Năm trăm Bà la môn đều nói:

–Chúng ta tôn thờ Át Ba La Diên làm thầy, sao lại không đến bàn luận với đức Phật về bốn chủng tánh này?

Họ nói với nhau như vậy đến hai, ba lần nên Át Ba La Diên liền đứng dậy, cùng năm trăm Bà la môn đi đến rừng cây Kỳ Ðà, nơi đức Phật đang ngụ. Tôn giả A Nan bạch đức Phật:

–Có người con của Bà la môn tên là Át Ba La Diên, tuổi mới mười lăm, mười sáu, cùng đi với năm trăm Bà la môn đến ở bên ngoài.

Ðức Phật bảo: –Hãy mời vào.

Tôn giả A Nan đi ra mời Át Ba La Diên vào. Át Ba La Diên cùng năm trăm Bà la môn đồng đứng, không đảnh lễ đức Phật, tự nói rằng:

–Tôi có chút việc muốn hỏi đức Phật.

Ðức Phật bảo: –Hãy ngồi xuống.

Át Ba La Diên bạch đức Phật:

–Tôi có điều muốn hỏi, ngài có cho phép chăng?

Ðức Phật nói:

–Nếu có điều gì nghi thì cứ hỏi.

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Các Phạm chí nói: “Dòng tộc chúng tôi khác với dòng tộc Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư, rằng dòng tộc chúng tôi là con cháu của Phạm thiên. Tiên tổ của chúng tôi lúc sơ sinh đều sanh từ miệng Phạm thiên, khi chết đều sanh lên trời”.

Ðức Phật nói:

–Trong kinh của ta không cho rằng các chủng loại khác nhau. Nếu như người Bà la môn lấy con gái của Sát lợi, con gái của Sát lợi sẽ sanh con, người Sát lợi lấy con gái của Ðiền Gia, con gái của Ðiền Gia sẽ sanh con, người Ðiền Gia lấy con gái của Công Sư, con gái của Công Sư sẽ sanh con, người Công Sư lấy con gái của Bà la môn, con gái của Bà la môn sẽ sanh con.

Ðức Phật nói:

–Trong kinh của ta lấy hành động làm gốc. Nếu có hành động tốt đó là dòng dõi tối thượng. Những người được thiên hạ tôn quý đều do hành động thiện mà ra, chứ không phải do dòng dõi. Trong vô số kiếp về trước, ta cũng sanh làm con của người Bà la môn, cũng sanh làm con của người Sát lợi, cũng sanh làm con của Ðiền Gia, cũng sanh làm con của Công Sư, cho đến làm con của vua. Nay thân ta làm Phật.

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên:

–Ta hỏi ngươi một việc. Hãy như sự thật trả lời.

Ðức Phật nói:

–Hoặc thấy người thế gian sanh làm con của nhà lành, trở lại đi ở cho người ta. Con của người ở trở lại làm chủ chăng?

Át Ba La Diên bạch đức Phật:

–Tôi nghe trong nước Nguyệt Chi có điều này.

Ðức Phật nói:

–Vì lý do gì mà con của nhà lành trở lại đi ở, con người đi ở trở lại làm chủ? Ðó là vì tâm chí của kẻ nô tỳ làm điều thiện nên người ta cho làm con. Còn con mình mà phải làm nô tỳ là vì tâm chí nó làm điều ác vậy, nên tự bán cho người khác để làm nô tỳ vậy.

Át Ba La Diên thưa:

–Nếu Ngài nói con người có chủng loại như vậy, thế thì dòng dõi con người từ đâu sanh ra?

Ðức Phật nói:

–Nếu bốn chủng tánh là: Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, và Công Sư đều ưa sát sanh, ưa trộm cắp, ưa dâm dục, ưa nói hai lưỡi, ưa nói lời độc ác, ưa nói dối, ưa dèm pha, thích sống chung với người ngu si, thích sân hận, thích cúng tế ... làm những hành vi như vậy, có đọa vào trong địa ngục chăng?

Át Ba La Diên nói:

–Dòng dõi Bà la môn cho rằng: tuy có làm các điều ác đó nhưng chủng loại ta vẫn là tối tôn, là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng của Phạm thiên, lúc chết đều được sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Nếu có người dòng Bà la môn, Sát Lợi, Ðiền Gia, và Công Sư không có tâm sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói dối, không có tâm ưa thích sàm tấu người khác, không có tâm thích sống chung với người ngu si, không có tâm thích sân hận và cúng tế. Những người như vậy sau khi chết há không sanh lên trời chăng?

Át Ba La Diên nói:

–Ðúng như vậy, tất cả đều sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Nếu bảo chủng loại thì nó từ đâu mà có?

Ngài nói:

–Loài người đều do tâm ý thức sanh ra. Nếu tâm ý thức làm điều tốt thì được sanh lên trời, sanh ở nhơn gian. Nếu tâm ý thức mà xấu thì sanh vào loài trùng, thú, súc sanh, quỷ thần, địa ngục. Nếu có người dòng Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư làm điều ác đều phải sanh vào trong ba ác đạo. Như vậy thì dòng dõi do đâu mà ra? Người dòng Bà la môn cũng có làm điều thiện, điều ác, người Sát đế lợi cũng có làm điều thiện, điều ác, người Ðiền Gia cũng có làm điều thiện, điều ác, người Công Sư cũng có làm điều thiện, điều ác. Nếu tự nói rằng có chủng tộc, vậy chủng tộc ở chỗ nào? Nếu người Bà la môn đem lòng oán ghét hư không, người Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư cũng đem lòng oán ghét hư không, đâu có thể làm hư không bị tổn thương? Theo ý đó biết rằng: chỉ có Bà la môn tự ôm lòng cống cao trên thế gian này mà thôi. Người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư vào trong khe nước lớn để tắm, ai cũng có thể tắm sạch các cáu bẩn ở trong nước, ai có thể phân biệt được đâu là cấu uế của Bà la môn, cấu uế của Sát lợi, cấu uế của Ðiền Gia, cấu uế của Công Sư?

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Cấu uế ở trong khe nước lớn.

Ðức Phật nói:

–Nên biết cấu uế ở chỗ nào. Nếu vẫn không biết cấu uế của con người, trở lại nói rằng: “Chủng tánh của ta vốn ở trên trời, sanh ra từ miệng Phạm Thiên, còn những chủng tánh khác đều sanh ra ở dưới, dòng dõi chúng ta là tôn quý nhất trong loài người”.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, nếu có vị quốc vương nghe nói nước nào, quận nào, huyện nào, làng xóm nào có Bà la môn và con của Bà la môn cao minh, có Sát lợi và con của Sát lợi cao minh, có Ðiền Gia và con của Ðiền Gia cao minh, có Công Sư và con của Công Sư cao minh, nhà vua liền triệu tất cả về để làm vương thần, nhà vua có hỏi chủng tánh của người ấy không? Nếu người có cao tài minh đạt thì nhà vua liền cấp cho quận, nước tốt. Sao vua lại không hỏi chủng loại kẻ ấy? Nếu ngươi có nói chủng loài thì này Át Ba La Diên, nó giới hạn ở chỗ nào? Từ chỗ ngồi của các trưởng lão, phía trước các trưởng lão là năm trăm người, sao lại không tra hỏi đâu là chủng loại? Ðâu là tác sư? Nếu có chủng loại Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư và các chủng loại khác, khi lạnh thì đều đến bên đống lửa lớn. Lửa nóng đâu có sưởi ấm dành cho một chủng loại nào, hơi ấm đều bình đẳng với mọi chủng loại. Nếu có một chiếc thuyền đi trên nước, người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, hay Công Sư đều ở trên thuyền, thuyền đâu có riêng chở cho người Bà la môn, cũng đâu có riêng chở các chủng loại khác?

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên:

–Nếu con của người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư và con của các chủng loại khác, thảy đều phải ở trong bào thai mười tháng, có thêm có bớt chăng?

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Tất cả đều phải ở trong bào thai mười tháng không thêm không bớt.

Ðức Phật nói:

–Tại sao các ngươi cho rằng: dòng dõi của mình là con cháu của Phạm Thiên sanh ra từ miệng Phạm Thiên? Dòng Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư cũng như các chủng loại khác. Mặt trời, mặt trăng sao lại không riêng chiếu cho một chủng loại nào? Sao lại chiếu hết các chủng loại?

Át Ba La Diên thưa:

–Chủng loại của tôi tự cho rằng chủng loại của mình hơn các chủng loại khác.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, nếu con lừa cha lấy ngựa mẹ, sanh con thì gọi là gì?

Át Ba La Diên thưa: –Gọi nó là la.

Ðức Phật bảo:

–Cha cũng không gọi là la, mẹ nó cũng không gọi là la, vậy sao gọi nó là la?

Át Ba La Diên nói:

–Bởi vì tiên tổ chúng tôi gọi nó là la, nên chúng tôi cũng gọi là la.

Ðức Phật hỏi:

–Nếu con ngựa là cha, lấy con lừa là mẹ, sanh con sao gọi nó là cự lư? Vì cha nó cũng không có tên là cự lư, mẹ nó cũng không có tên cự lư, tại sao biết nó là cự lư?

Ðáp rằng:

–Vì tiên tổ chúng tôi gọi nó là cự lư, nên chúng tôi cũng gọi là cự lư.

Ðức Phật hỏi:

–Nếu người Bà la môn lấy vợ là con gái của Sát lợi, người con gái của Sát lợi lúc sanh con, gọi nó là gì? Nên gọi nó là dòng dõi Bà la môn hay Sát lợi?

Át Ba La Diên thưa:

–Con chẳng biết nó thuộc chủng loại nào?

Ðức Phật nói:

–Nếu không tự biết chủng loại, sao gọi nó là la, là cự lư? Nếu người nữ là Sát lợi lấy chồng là Bà la môn, sanh con, khi đã sanh vào nhà này, tùy theo sự tế tự, tùy theo chủng loại, đứa bé ấy về sau thành bậc cao minh, các ngươi có thừa sự chỗ xuất sanh ấy chăng?

Thưa rằng: –Chúng tôi thừa sự.

–Nếu người Bà la môn lấy vợ là Ðiền Gia, người nữ Ðiền gia sanh con, nhưng đứa con ấy có tâm sát sanh, trộm cắp, dâm dật, nói hai lưỡi, nói lời ác độc, sân hận, có tâm cúng tế. Người có những hành vi ấy, các ngươi có tương tùy với người ấy chăng?

Thưa rằng:

–Chúng tôi không tương tùy với đứa con có tâm ý thức làm việc ác ấy. Chúng tôi sẽ trục xuất kẻ ấy ra khỏi dòng họ chúng tôi.

Ðức Phật nói:

–Nếu các ngươi tự cho rằng: Chúng ta là con cháu của Phạm Thiên, sanh ra từ miệng của Phạm Thiên, khi chết được sanh lên trời, sao các ngươi chỉ thấy tâm ý thức của kẻ ấy làm ác liền trục xuất họ ra ngoài? Tại sao các ngươi lại nói chủng loại?

Ðức Phật nói:

–Nếu có Bà la môn có sự bất hiếu với cha mẹ, thích sát sanh, trộm cướp, làm mười điều ác, lúc chết người ấy sẽ đi về đâu?

Át Ba La Diên nói:

–Người mà tâm ý thức làm những việc như vậy, lúc chết phải nhập vào địa ngục.

Ðức Phật nói:

–Nếu ngươi nói: dòng họ của ta vốn từ Phạm Thiên, sanh ra từ miệng Phạm Thiên, là tối tôn trong loài người, sao lại sanh trong địa ngục được?

Ðức Phật nói:

–Con người trong thiên hạ không có chủng loại, không có thường tồn. Bậc cao minh nhờ tâm ý chí thiện, làm điều tốt đẹp, đó là bậc tôn quý. Còn tâm ý của người làm điều ác, đó là kẻ hạ tiện.

Át Ba La Diên tự suy nghĩ: “Ta vốn không muốn đến đây, do mọi người đều bảo ta đến”. Rồi tự tư duy: “Ý của ta không muốn tranh luận với đức Phật”. Ta còn nói tiếp: “Ðức Phật là bậc chánh đạo, đức Phật nói: Nếu trước đây nói chủng loại con người thay đổi, nay lại nói rằng: tâm ý chí tốt”.

Át Ba La Diên tự suy nghĩ: “Lời của đức Phật ngăn chặn ta trước và sau”.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, vào kiếp quá khứ có bảy Bà la môn đều có đạo hạnh, ngày ngày cúng tế trời. Bảy Bà la môn này cũng nói rằng: Ta là con cháu của Phạm Thiên, chúng ta cũng sanh từ miệng Phạm Thiên, còn kẻ phàm nhơn thì sanh ở dưới. Chủng loại của ta lúc chết được sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Lúc đó ta cũng là đạo nhân tên A Tuất. Mọi người đều nói: Ðạo của ta là thiện đạo. Lúc ấy ta thấy bảy Bà la môn đều đứng trước ngọn lửa đền thờ. Các Bà la môn đều nói: Chúng ta lúc chết sẽ rực sáng như ngọn lửa này ở trên trời.

Ðức Phật nói:

–“Ðể ta xem bọn người này làm gì?”. Ta tự biến đổi thân thể, tay cầm lá cờ có chuôi lông bằng vàng ròng, thân mặc đồ trắng, đi theo người trên chiếc xe giả, đến chỗ bảy Bà la môn ấy. Khi ấy bảy Bà la môn đang đi kinh hành, và cả nhóm trông thấy ta, gọi ta là “Người hành đạo Bà la môn từ đâu đến đây?”. Bảy Bà la môn nói: “Nếu ngài là Thiên đạo, xin hãy nói tóm lược cho chúng tôi: sao lại mặc y đẹp, cỡi xe, tay cầm cờ vàng rực rỡ. Ngài từ đâu sanh ra và muốn đi về đâu? Từ đâu đến? Và sao lại đến chỗ này?”.

Lúc ấy ta làm thinh không trả lời. Bọn họ thấy ta không nói, nên tất cả đều nổi giận, liền dùng thần chú đối với ta, muốn khiến cho ta đứng mà chết. Họ dùng thần chú đối với ta mà sắc mặt của ta lại đẹp. Bọn họ lại đọc chú, sắc mặt của ta lại càng thêm đẹp. Bảy Bà la môn ấy hết sức khinh hãi, nói rằng: “Những người bị chúng ta đọc chú đều chết cả, nhưng nay chúng ta đọc chú người này mà sắc mặt y lại càng đẹp hơn”.

Lúc ấy họ lại gọi “A Tuất”, tự nghĩ rằng: “Ngươi muốn về đường nào?”.

A Tuất liền đáp: “Ý của đạo chúng tôi hơn tất cả. Tại sao các ngươi nổi giận? Vậy các ngươi có nghe A Tuất nói về Thiên đạo chăng?”.

Bọn họ nói: “Chúng tôi không nghe”.

A Tuất nói: “Này hiền giả, bậc đạo nhân gặp nhau, cùng nhau thăm hỏi, sao lại tức giận?”.

A Tuất bảo: “Ta nghe các Phạm chí nói rằng: các Bà la môn trong thiên hạ là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, độc tôn trong loài người. Do vậy nên ta đến hỏi các ngươi: Nếu đốt lửa này để cúng trời, nếu thờ trời đúng như pháp thì có vị thầy nào nói ra chăng? Ðiều đó cũng không nghe tổ tiên nói ra”.

Bảy Bà la môn nói: “Tổ tiên chúng tôi làm, nên chúng tôi bắt chước”.

A Tuất đạo nhân nói: “Vậy tổ mẫu của các ngươi là con gái của Bà la môn, hay con gái của dòng họ khác?”.

–Chúng tôi không biết tổ mẫu của chúng tôi là con gái của Sát lợi, con gái của Ðiền Gia hay con gái của Công Sư. Chúng tôi không biết tiên tổ mẫu của chúng tôi có phải do người Bà la môn sanh ra hay không, hoặc các vị ấy yêu thương người khác sanh ra chủng loại chúng tôi.

A Tuất nói: “Nếu đã không biết tổ tiên, sao lại nói tổ tiên các người từ Phạm thiên sanh? Tâm lý của người nữ không có gì bảo đảm. Nếu các ngươi biết được người thế gian, vậy vợ chồng giao hợp làm sao để sanh con?”.

Bọn họ đều nói: “Chúng tôi không biết”.

–Nếu các ngươi đã không biết tổ tiên, cũng không biết con người từ đâu sanh ra, vậy sao lại sân hận ta? Phàm con người gặp nhau, trước hết phải hỏi thăm để biết cao thấp, phải biết ý chí của con người ấy rồi mới tức giận, tại sao trước tiên lại giận? Nếu biết con người lúc đầu nhập vào bào thai trong bụng mẹ, nếu không phải do lòng tham dâm của người cha, thì cũng do tâm ái dục của người mẹ mới sinh ra con. Hội đủ ba điều kiện ấy mới thành con. Ðã làm con, ai khiến cho thân trung ấm gặp cha mẹ để thành con? Ðứa con ở trong bụng mẹ hoặc đời trước làm ác thì nay ở trong bụng mẹ hoặc bị mù, hoặc bị điếc, hoặc bị ngọng, hoặc bị gù, hoặc bị kiễng chân, hoặc thành kẻ hư ác mà cha mẹ đều không biết rõ. Cha mẹ mang con ở trong bụng mà còn không biết được con mình là đẹp hay xấu thay, thì các ngươi làm sao biết được tiên tổ các ngươi là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiênđộc tôn trong loài người?

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên: “Ở đời trước, bảy Bà la môn này có thể chú thuật giết người. Lúc đó ta không chấp nhận lời họ nói và sách họ chép. Nay ta đã thành Phật, họ lại đến nói với ta: họ là con cháu Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, độc tôn trong loài người”.

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên: “Hãy suy nghĩ điều ta nói: Thiên hạ sanh con nuôi lớn nhờ cha mẹ, thành người là nhờ thầy”.

Bà la môn Át Ba La Diên cùng năm trăm Bà la môn và các Bà la môn khác đồng suy nghĩ.

Ðức Phật nói: “Thời trước ta còn làm thầy của bảy Bà la môn. Bảy Bà la môn này là người đạo đức, có thể dùng chú thuật giết người. Nay ta phải phân biệt nói ra. Con người có chủng loại, một thành ra trăm, trăm thành ra ngàn, ngàn thành ra vạn, vạn cũng là một”.

Át Ba La Diên cùng các Bà la môn đồng đến phía trước, lấy đầu mặt lạy dưới chân đức Phật, nói rằng: “Chúng con không rõ một thành trăm, trăm thành ngàn, ngàn thành vạn, vạn cũng từ một là ý nghĩa gì?”.

Ðức Phật nói: “Ðó là người thế gian tham đắm sanh tử rất nhiều. Một người sanh con cháu, sau đó phân ra thành một trăm nhà, trăm nhà cầu đạo thì chỉ một đạo. Sao gọi là một đạo? Ðó là đạo vô vi vậy. Như vậy là một thành ngàn, ngàn thành vạn”.

Át Ba La Diên đến phía trước đức Phật, quỳ xuống thưa rằng: “Xin Ngài hãy thương xót chúng con, như Ngài thương các Sa môn, đừng có tâm tức giận đối với chúng con. Chúng con xin trở về cùng nhau kiểm điểm”.

Ðức Phật nói: “Lành thay!”.

–Sáng mai chúng con nguyện tịnh tâm.

Tất cả đều đứng dậy đầu mặt lạy dưới chân đức Phật rồi đi ra. 

 

PHẬT NÓI KINH

ÁT BA LA DIÊN PHẠM CHÍ VẤN CHỦNG TÔN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21768)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23604)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18989)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24765)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30975)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23990)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26514)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21317)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23229)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38135)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19048)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23884)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22808)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22913)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29578)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20643)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18711)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18861)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19683)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20155)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19955)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18124)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22943)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34167)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16919)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39251)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26078)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18858)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22903)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30966)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21010)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26855)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23325)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19818)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24683)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20226)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20406)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15839)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23900)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19861)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant