Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12498)
Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn


PHẬT NÓI KINH ÁT BA LA DIÊN VẤN CHỦNG TÔN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0071 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông Tấn, Sa Môn Trúc Ðàm Vô Lan

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, nước Xá vệ. Lúc ấy có năm trăm Tỳ kheo cùng câu hội.

Bấy giờ trong thành Xá vệ có năm trăm người Bà la môn, năm trăm người này cùng nhau ra khỏi thành, tự đến ngôi nhà tranh của họ ở ngoài đồng, cùng nhau ngồi xuống, bàn luận rằng:

–Lúc con người có mặt đầu tiên trên quả địa cầu thì đều là dòng Bà la môn của chúng ta, dòng Sát lợi là thứ hai, dòng Ðiền gia là thứ ba, dòng Công sư là thứ tư. Dòng Bà la môn lúc mới sơ sanh, sanh ra từ miệng của Phạm thiên, người đời nay ngược lại, sanh ra ở phía dưới. Như vậy ở trong thiên hạ, dòng dõi chúng ta là tối tôn. Dòng dõi chúng ta đều là con cháu của Phạm thiên thứ bảy. Nhưng đức Phật thì nói ngược lại, là thiên hạ chỉ có một chủng loại. Ðức Phật cho rằng dòng dõi chúng ta cùng Sát lợi, Ðiền gia, Công sư đều bình đẳng. Dòng dõi chúng ta khi chết đều được sanh lên Phạm thiên. Ngược lại thì đức Phật cho dòng dõi của chúng ta cùng với người phàm giống nhau.

Họ cùng nhau bàn luận rằng:

–Ai có thể giảng giải, phân biệt về chủng loại cùng đức Phật được?

Bấy giờ có một người con của Bà la môn, tuổi mới mười lăm, mười sáu, tên là Át Ba La Diên Ðại Thánh, biết rõ các việc thợ thuyền, sách vở, biết phương hướng đến. Trong năm trăm Bà la môn không ai có thể sánh bằng, các bậc thầy đều thờ kính. Vị ấy có thể nói kinh, biết việc thiên hạ. Thân thể của Ðại thánh Át Ba La Diên có tướng kỳ đặc.

Các Bà la môn cùng nhau bàn luận rằng:

–Chỉ có Át Ba La Diên mới có thể đàm luận cùng đức Phật được. Chúng ta thì không thể cùng đàm luận với đức Phật.

Năm trăm người Bà la môn cùng nhau bảo Át Ba La Diên rằng:

–Ðức Phật cho rằng người trong thiên hạ chỉ có một chủng tánh. Dòng họ chúng ta cùng Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư khác nhau. Dòng họ chúng ta từ Phạm thiên đến, sanh từ miệng Phạm thiên, nhưng nhơn sanh đời này lại sanh ra ở phía dưới. Ðức Phật nói: “Thiên hạ có bốn chủng tánh, bốn chủng tánh này đều tốt như nhau”. Mong Át Ba La Diên tự hạ cố cùng đi với chúng tôi đến chỗ đức Phật để cùng nghị luận.

Át Ba La Diên nói rằng:

–Ðức Phật là người nắm giữ chánh đạo, có thể đáp ứng theo chánh đạo. Nếu muốn đem chủng tánh Bà la môn đến để hỏi thì được. Chớ không ai có thể bàn chánh đạo với Ngài được.

Năm trăm Bà la môn đều nói:

–Chúng ta tôn thờ Át Ba La Diên làm thầy, sao lại không đến bàn luận với đức Phật về bốn chủng tánh này?

Họ nói với nhau như vậy đến hai, ba lần nên Át Ba La Diên liền đứng dậy, cùng năm trăm Bà la môn đi đến rừng cây Kỳ Ðà, nơi đức Phật đang ngụ. Tôn giả A Nan bạch đức Phật:

–Có người con của Bà la môn tên là Át Ba La Diên, tuổi mới mười lăm, mười sáu, cùng đi với năm trăm Bà la môn đến ở bên ngoài.

Ðức Phật bảo: –Hãy mời vào.

Tôn giả A Nan đi ra mời Át Ba La Diên vào. Át Ba La Diên cùng năm trăm Bà la môn đồng đứng, không đảnh lễ đức Phật, tự nói rằng:

–Tôi có chút việc muốn hỏi đức Phật.

Ðức Phật bảo: –Hãy ngồi xuống.

Át Ba La Diên bạch đức Phật:

–Tôi có điều muốn hỏi, ngài có cho phép chăng?

Ðức Phật nói:

–Nếu có điều gì nghi thì cứ hỏi.

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Các Phạm chí nói: “Dòng tộc chúng tôi khác với dòng tộc Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư, rằng dòng tộc chúng tôi là con cháu của Phạm thiên. Tiên tổ của chúng tôi lúc sơ sinh đều sanh từ miệng Phạm thiên, khi chết đều sanh lên trời”.

Ðức Phật nói:

–Trong kinh của ta không cho rằng các chủng loại khác nhau. Nếu như người Bà la môn lấy con gái của Sát lợi, con gái của Sát lợi sẽ sanh con, người Sát lợi lấy con gái của Ðiền Gia, con gái của Ðiền Gia sẽ sanh con, người Ðiền Gia lấy con gái của Công Sư, con gái của Công Sư sẽ sanh con, người Công Sư lấy con gái của Bà la môn, con gái của Bà la môn sẽ sanh con.

Ðức Phật nói:

–Trong kinh của ta lấy hành động làm gốc. Nếu có hành động tốt đó là dòng dõi tối thượng. Những người được thiên hạ tôn quý đều do hành động thiện mà ra, chứ không phải do dòng dõi. Trong vô số kiếp về trước, ta cũng sanh làm con của người Bà la môn, cũng sanh làm con của người Sát lợi, cũng sanh làm con của Ðiền Gia, cũng sanh làm con của Công Sư, cho đến làm con của vua. Nay thân ta làm Phật.

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên:

–Ta hỏi ngươi một việc. Hãy như sự thật trả lời.

Ðức Phật nói:

–Hoặc thấy người thế gian sanh làm con của nhà lành, trở lại đi ở cho người ta. Con của người ở trở lại làm chủ chăng?

Át Ba La Diên bạch đức Phật:

–Tôi nghe trong nước Nguyệt Chi có điều này.

Ðức Phật nói:

–Vì lý do gì mà con của nhà lành trở lại đi ở, con người đi ở trở lại làm chủ? Ðó là vì tâm chí của kẻ nô tỳ làm điều thiện nên người ta cho làm con. Còn con mình mà phải làm nô tỳ là vì tâm chí nó làm điều ác vậy, nên tự bán cho người khác để làm nô tỳ vậy.

Át Ba La Diên thưa:

–Nếu Ngài nói con người có chủng loại như vậy, thế thì dòng dõi con người từ đâu sanh ra?

Ðức Phật nói:

–Nếu bốn chủng tánh là: Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, và Công Sư đều ưa sát sanh, ưa trộm cắp, ưa dâm dục, ưa nói hai lưỡi, ưa nói lời độc ác, ưa nói dối, ưa dèm pha, thích sống chung với người ngu si, thích sân hận, thích cúng tế ... làm những hành vi như vậy, có đọa vào trong địa ngục chăng?

Át Ba La Diên nói:

–Dòng dõi Bà la môn cho rằng: tuy có làm các điều ác đó nhưng chủng loại ta vẫn là tối tôn, là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng của Phạm thiên, lúc chết đều được sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Nếu có người dòng Bà la môn, Sát Lợi, Ðiền Gia, và Công Sư không có tâm sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói dối, không có tâm ưa thích sàm tấu người khác, không có tâm thích sống chung với người ngu si, không có tâm thích sân hận và cúng tế. Những người như vậy sau khi chết há không sanh lên trời chăng?

Át Ba La Diên nói:

–Ðúng như vậy, tất cả đều sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Nếu bảo chủng loại thì nó từ đâu mà có?

Ngài nói:

–Loài người đều do tâm ý thức sanh ra. Nếu tâm ý thức làm điều tốt thì được sanh lên trời, sanh ở nhơn gian. Nếu tâm ý thức mà xấu thì sanh vào loài trùng, thú, súc sanh, quỷ thần, địa ngục. Nếu có người dòng Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư làm điều ác đều phải sanh vào trong ba ác đạo. Như vậy thì dòng dõi do đâu mà ra? Người dòng Bà la môn cũng có làm điều thiện, điều ác, người Sát đế lợi cũng có làm điều thiện, điều ác, người Ðiền Gia cũng có làm điều thiện, điều ác, người Công Sư cũng có làm điều thiện, điều ác. Nếu tự nói rằng có chủng tộc, vậy chủng tộc ở chỗ nào? Nếu người Bà la môn đem lòng oán ghét hư không, người Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư cũng đem lòng oán ghét hư không, đâu có thể làm hư không bị tổn thương? Theo ý đó biết rằng: chỉ có Bà la môn tự ôm lòng cống cao trên thế gian này mà thôi. Người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư vào trong khe nước lớn để tắm, ai cũng có thể tắm sạch các cáu bẩn ở trong nước, ai có thể phân biệt được đâu là cấu uế của Bà la môn, cấu uế của Sát lợi, cấu uế của Ðiền Gia, cấu uế của Công Sư?

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Cấu uế ở trong khe nước lớn.

Ðức Phật nói:

–Nên biết cấu uế ở chỗ nào. Nếu vẫn không biết cấu uế của con người, trở lại nói rằng: “Chủng tánh của ta vốn ở trên trời, sanh ra từ miệng Phạm Thiên, còn những chủng tánh khác đều sanh ra ở dưới, dòng dõi chúng ta là tôn quý nhất trong loài người”.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, nếu có vị quốc vương nghe nói nước nào, quận nào, huyện nào, làng xóm nào có Bà la môn và con của Bà la môn cao minh, có Sát lợi và con của Sát lợi cao minh, có Ðiền Gia và con của Ðiền Gia cao minh, có Công Sư và con của Công Sư cao minh, nhà vua liền triệu tất cả về để làm vương thần, nhà vua có hỏi chủng tánh của người ấy không? Nếu người có cao tài minh đạt thì nhà vua liền cấp cho quận, nước tốt. Sao vua lại không hỏi chủng loại kẻ ấy? Nếu ngươi có nói chủng loài thì này Át Ba La Diên, nó giới hạn ở chỗ nào? Từ chỗ ngồi của các trưởng lão, phía trước các trưởng lão là năm trăm người, sao lại không tra hỏi đâu là chủng loại? Ðâu là tác sư? Nếu có chủng loại Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư và các chủng loại khác, khi lạnh thì đều đến bên đống lửa lớn. Lửa nóng đâu có sưởi ấm dành cho một chủng loại nào, hơi ấm đều bình đẳng với mọi chủng loại. Nếu có một chiếc thuyền đi trên nước, người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, hay Công Sư đều ở trên thuyền, thuyền đâu có riêng chở cho người Bà la môn, cũng đâu có riêng chở các chủng loại khác?

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên:

–Nếu con của người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư và con của các chủng loại khác, thảy đều phải ở trong bào thai mười tháng, có thêm có bớt chăng?

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Tất cả đều phải ở trong bào thai mười tháng không thêm không bớt.

Ðức Phật nói:

–Tại sao các ngươi cho rằng: dòng dõi của mình là con cháu của Phạm Thiên sanh ra từ miệng Phạm Thiên? Dòng Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư cũng như các chủng loại khác. Mặt trời, mặt trăng sao lại không riêng chiếu cho một chủng loại nào? Sao lại chiếu hết các chủng loại?

Át Ba La Diên thưa:

–Chủng loại của tôi tự cho rằng chủng loại của mình hơn các chủng loại khác.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, nếu con lừa cha lấy ngựa mẹ, sanh con thì gọi là gì?

Át Ba La Diên thưa: –Gọi nó là la.

Ðức Phật bảo:

–Cha cũng không gọi là la, mẹ nó cũng không gọi là la, vậy sao gọi nó là la?

Át Ba La Diên nói:

–Bởi vì tiên tổ chúng tôi gọi nó là la, nên chúng tôi cũng gọi là la.

Ðức Phật hỏi:

–Nếu con ngựa là cha, lấy con lừa là mẹ, sanh con sao gọi nó là cự lư? Vì cha nó cũng không có tên là cự lư, mẹ nó cũng không có tên cự lư, tại sao biết nó là cự lư?

Ðáp rằng:

–Vì tiên tổ chúng tôi gọi nó là cự lư, nên chúng tôi cũng gọi là cự lư.

Ðức Phật hỏi:

–Nếu người Bà la môn lấy vợ là con gái của Sát lợi, người con gái của Sát lợi lúc sanh con, gọi nó là gì? Nên gọi nó là dòng dõi Bà la môn hay Sát lợi?

Át Ba La Diên thưa:

–Con chẳng biết nó thuộc chủng loại nào?

Ðức Phật nói:

–Nếu không tự biết chủng loại, sao gọi nó là la, là cự lư? Nếu người nữ là Sát lợi lấy chồng là Bà la môn, sanh con, khi đã sanh vào nhà này, tùy theo sự tế tự, tùy theo chủng loại, đứa bé ấy về sau thành bậc cao minh, các ngươi có thừa sự chỗ xuất sanh ấy chăng?

Thưa rằng: –Chúng tôi thừa sự.

–Nếu người Bà la môn lấy vợ là Ðiền Gia, người nữ Ðiền gia sanh con, nhưng đứa con ấy có tâm sát sanh, trộm cắp, dâm dật, nói hai lưỡi, nói lời ác độc, sân hận, có tâm cúng tế. Người có những hành vi ấy, các ngươi có tương tùy với người ấy chăng?

Thưa rằng:

–Chúng tôi không tương tùy với đứa con có tâm ý thức làm việc ác ấy. Chúng tôi sẽ trục xuất kẻ ấy ra khỏi dòng họ chúng tôi.

Ðức Phật nói:

–Nếu các ngươi tự cho rằng: Chúng ta là con cháu của Phạm Thiên, sanh ra từ miệng của Phạm Thiên, khi chết được sanh lên trời, sao các ngươi chỉ thấy tâm ý thức của kẻ ấy làm ác liền trục xuất họ ra ngoài? Tại sao các ngươi lại nói chủng loại?

Ðức Phật nói:

–Nếu có Bà la môn có sự bất hiếu với cha mẹ, thích sát sanh, trộm cướp, làm mười điều ác, lúc chết người ấy sẽ đi về đâu?

Át Ba La Diên nói:

–Người mà tâm ý thức làm những việc như vậy, lúc chết phải nhập vào địa ngục.

Ðức Phật nói:

–Nếu ngươi nói: dòng họ của ta vốn từ Phạm Thiên, sanh ra từ miệng Phạm Thiên, là tối tôn trong loài người, sao lại sanh trong địa ngục được?

Ðức Phật nói:

–Con người trong thiên hạ không có chủng loại, không có thường tồn. Bậc cao minh nhờ tâm ý chí thiện, làm điều tốt đẹp, đó là bậc tôn quý. Còn tâm ý của người làm điều ác, đó là kẻ hạ tiện.

Át Ba La Diên tự suy nghĩ: “Ta vốn không muốn đến đây, do mọi người đều bảo ta đến”. Rồi tự tư duy: “Ý của ta không muốn tranh luận với đức Phật”. Ta còn nói tiếp: “Ðức Phật là bậc chánh đạo, đức Phật nói: Nếu trước đây nói chủng loại con người thay đổi, nay lại nói rằng: tâm ý chí tốt”.

Át Ba La Diên tự suy nghĩ: “Lời của đức Phật ngăn chặn ta trước và sau”.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, vào kiếp quá khứ có bảy Bà la môn đều có đạo hạnh, ngày ngày cúng tế trời. Bảy Bà la môn này cũng nói rằng: Ta là con cháu của Phạm Thiên, chúng ta cũng sanh từ miệng Phạm Thiên, còn kẻ phàm nhơn thì sanh ở dưới. Chủng loại của ta lúc chết được sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Lúc đó ta cũng là đạo nhân tên A Tuất. Mọi người đều nói: Ðạo của ta là thiện đạo. Lúc ấy ta thấy bảy Bà la môn đều đứng trước ngọn lửa đền thờ. Các Bà la môn đều nói: Chúng ta lúc chết sẽ rực sáng như ngọn lửa này ở trên trời.

Ðức Phật nói:

–“Ðể ta xem bọn người này làm gì?”. Ta tự biến đổi thân thể, tay cầm lá cờ có chuôi lông bằng vàng ròng, thân mặc đồ trắng, đi theo người trên chiếc xe giả, đến chỗ bảy Bà la môn ấy. Khi ấy bảy Bà la môn đang đi kinh hành, và cả nhóm trông thấy ta, gọi ta là “Người hành đạo Bà la môn từ đâu đến đây?”. Bảy Bà la môn nói: “Nếu ngài là Thiên đạo, xin hãy nói tóm lược cho chúng tôi: sao lại mặc y đẹp, cỡi xe, tay cầm cờ vàng rực rỡ. Ngài từ đâu sanh ra và muốn đi về đâu? Từ đâu đến? Và sao lại đến chỗ này?”.

Lúc ấy ta làm thinh không trả lời. Bọn họ thấy ta không nói, nên tất cả đều nổi giận, liền dùng thần chú đối với ta, muốn khiến cho ta đứng mà chết. Họ dùng thần chú đối với ta mà sắc mặt của ta lại đẹp. Bọn họ lại đọc chú, sắc mặt của ta lại càng thêm đẹp. Bảy Bà la môn ấy hết sức khinh hãi, nói rằng: “Những người bị chúng ta đọc chú đều chết cả, nhưng nay chúng ta đọc chú người này mà sắc mặt y lại càng đẹp hơn”.

Lúc ấy họ lại gọi “A Tuất”, tự nghĩ rằng: “Ngươi muốn về đường nào?”.

A Tuất liền đáp: “Ý của đạo chúng tôi hơn tất cả. Tại sao các ngươi nổi giận? Vậy các ngươi có nghe A Tuất nói về Thiên đạo chăng?”.

Bọn họ nói: “Chúng tôi không nghe”.

A Tuất nói: “Này hiền giả, bậc đạo nhân gặp nhau, cùng nhau thăm hỏi, sao lại tức giận?”.

A Tuất bảo: “Ta nghe các Phạm chí nói rằng: các Bà la môn trong thiên hạ là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, độc tôn trong loài người. Do vậy nên ta đến hỏi các ngươi: Nếu đốt lửa này để cúng trời, nếu thờ trời đúng như pháp thì có vị thầy nào nói ra chăng? Ðiều đó cũng không nghe tổ tiên nói ra”.

Bảy Bà la môn nói: “Tổ tiên chúng tôi làm, nên chúng tôi bắt chước”.

A Tuất đạo nhân nói: “Vậy tổ mẫu của các ngươi là con gái của Bà la môn, hay con gái của dòng họ khác?”.

–Chúng tôi không biết tổ mẫu của chúng tôi là con gái của Sát lợi, con gái của Ðiền Gia hay con gái của Công Sư. Chúng tôi không biết tiên tổ mẫu của chúng tôi có phải do người Bà la môn sanh ra hay không, hoặc các vị ấy yêu thương người khác sanh ra chủng loại chúng tôi.

A Tuất nói: “Nếu đã không biết tổ tiên, sao lại nói tổ tiên các người từ Phạm thiên sanh? Tâm lý của người nữ không có gì bảo đảm. Nếu các ngươi biết được người thế gian, vậy vợ chồng giao hợp làm sao để sanh con?”.

Bọn họ đều nói: “Chúng tôi không biết”.

–Nếu các ngươi đã không biết tổ tiên, cũng không biết con người từ đâu sanh ra, vậy sao lại sân hận ta? Phàm con người gặp nhau, trước hết phải hỏi thăm để biết cao thấp, phải biết ý chí của con người ấy rồi mới tức giận, tại sao trước tiên lại giận? Nếu biết con người lúc đầu nhập vào bào thai trong bụng mẹ, nếu không phải do lòng tham dâm của người cha, thì cũng do tâm ái dục của người mẹ mới sinh ra con. Hội đủ ba điều kiện ấy mới thành con. Ðã làm con, ai khiến cho thân trung ấm gặp cha mẹ để thành con? Ðứa con ở trong bụng mẹ hoặc đời trước làm ác thì nay ở trong bụng mẹ hoặc bị mù, hoặc bị điếc, hoặc bị ngọng, hoặc bị gù, hoặc bị kiễng chân, hoặc thành kẻ hư ác mà cha mẹ đều không biết rõ. Cha mẹ mang con ở trong bụng mà còn không biết được con mình là đẹp hay xấu thay, thì các ngươi làm sao biết được tiên tổ các ngươi là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiênđộc tôn trong loài người?

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên: “Ở đời trước, bảy Bà la môn này có thể chú thuật giết người. Lúc đó ta không chấp nhận lời họ nói và sách họ chép. Nay ta đã thành Phật, họ lại đến nói với ta: họ là con cháu Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, độc tôn trong loài người”.

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên: “Hãy suy nghĩ điều ta nói: Thiên hạ sanh con nuôi lớn nhờ cha mẹ, thành người là nhờ thầy”.

Bà la môn Át Ba La Diên cùng năm trăm Bà la môn và các Bà la môn khác đồng suy nghĩ.

Ðức Phật nói: “Thời trước ta còn làm thầy của bảy Bà la môn. Bảy Bà la môn này là người đạo đức, có thể dùng chú thuật giết người. Nay ta phải phân biệt nói ra. Con người có chủng loại, một thành ra trăm, trăm thành ra ngàn, ngàn thành ra vạn, vạn cũng là một”.

Át Ba La Diên cùng các Bà la môn đồng đến phía trước, lấy đầu mặt lạy dưới chân đức Phật, nói rằng: “Chúng con không rõ một thành trăm, trăm thành ngàn, ngàn thành vạn, vạn cũng từ một là ý nghĩa gì?”.

Ðức Phật nói: “Ðó là người thế gian tham đắm sanh tử rất nhiều. Một người sanh con cháu, sau đó phân ra thành một trăm nhà, trăm nhà cầu đạo thì chỉ một đạo. Sao gọi là một đạo? Ðó là đạo vô vi vậy. Như vậy là một thành ngàn, ngàn thành vạn”.

Át Ba La Diên đến phía trước đức Phật, quỳ xuống thưa rằng: “Xin Ngài hãy thương xót chúng con, như Ngài thương các Sa môn, đừng có tâm tức giận đối với chúng con. Chúng con xin trở về cùng nhau kiểm điểm”.

Ðức Phật nói: “Lành thay!”.

–Sáng mai chúng con nguyện tịnh tâm.

Tất cả đều đứng dậy đầu mặt lạy dưới chân đức Phật rồi đi ra. 

 

PHẬT NÓI KINH

ÁT BA LA DIÊN PHẠM CHÍ VẤN CHỦNG TÔN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23964)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41221)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19698)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23994)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23313)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27508)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26575)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20200)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25782)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20916)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31322)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38580)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21444)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29834)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42219)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45768)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23961)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29282)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33921)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27684)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28855)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21586)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28068)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19471)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19837)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19251)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29189)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28304)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33190)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21378)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39630)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21552)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19381)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26399)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24832)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22397)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22560)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23519)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35329)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31346)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant