Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ưu Bà Di Đọa Xá Ca

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14052)
Kinh Ưu Bà Di Đọa Xá Ca


PHẬT NÓI KINH ƯU BÀ DI ÐỌA XÁ CA


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0088 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Mất tên người dịch, nay phụ bản đời Tống

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Phật dừng chân ở phái Ðông thành, nước Xá vệ. Bấy giờ có một người con của nữ nhân tự là Vu da lâu, người đời gọi là Vu da lâu mẫu. Ðức Phật ngồi trên điện nhà của Vu da lâu mẫu. Có một người nữ phụng trì giáo giới tên tự là Ðọa xá ca, vào lúc sáng sớm ngày mười lăm trong tháng, thức dậy tắm rửa, cùng bảy người con, vợ đều tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới, nhân buổi sáng ngày ăn cơm, ăn xong rửa tay, dẫn bảy người con, vợ đến trước đức Phật để đảnh lễ. Ðức Phật bảo ngồi xuống, tất cả đều ngồi xuống. Ðức Phật hỏi Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Tại sao hôm nay tất cả đều tắm rửa, mặc áo mới, cùng với con, vợ, đồng đến chỗ Phật.?

Ðọa xá ca thưa:

–Hôm nay là ngày mười lăm, chúng con trai giới. Con nghe một tháng phải trai giới sáu ngày, cho nên con cùng con, vợ, đồng trai giới, không dám giải đãi khinh mạn.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Trai pháp chơn chánh của Phật có tám giới khiến cho con người được độ thoát, không đọa vào ba chỗ ác, sanh ở đâu cũng thường có phước đức che chở, cũng nhờ nhân duyên tám giới bổn này mà đưa đến thành Phật.

Những gì là trai pháp chơn chánh của Phật? Thế gian có người hiền thiện giữ giới, một tháng có sáu ngày trai tịnh: ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày hai mươi ba, ngày hai mươi chín và ngày ba mươi. Ngày trai tịnh sáng sớm thức dậy bảo các người trong nhà:

–Ngày hôm nay ta trai tịnh, trong (một) ngày này cả nhà chớ có uống rượu, chớ có đấu tranh, chớ có nói chuyện tiền tài. Cả nhà, ý nghĩ miệng nói phải như A-la-hán. A-la-hán không có ý sát sinh, ngày trai tịnh giữ giới cũng phải như A-la-hán, không có ý sát sinh, không có ý đánh đập, nghĩ thương súc sanh và côn trùng, khiến cho thường phát sanh tâm ý như bậc A-la-hán.

Ðó là ý thứ nhất. Ngày và đêm hôm nay giữ gìn ý sát, khiến cho không sát, giữ ý như vậy là giới thứ nhất của Phật.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh giữ ý phải như A-la-hán không có tâm tham, không có tham luyến thế gian, không có ý tham dù đó là một sợi lông, cọng rau. như vậy ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán, người giàu có thường nghĩ đến việc bố thí, người nghèo khó chẳng có gì, vẫn luôn luôn nghĩ đến việc bố thí. Ðó là giới thứ hai.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán, A-la-hán không chấp chứa phụ nữ, cũng không nghĩ đến vợ, cũng không ham thích nữ nhơn, cũng không có ý dâm. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ ba.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh, giữ ý phải như A-la-hán, không nói dối, không có ý làm thương hại người. Khi nói là nói kinh Phật, lúc im lặng chỉ nghĩ đến các điều thiện. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ tư.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán không uống rượu, không nghĩ đến rượu, không nhớ đến rượu, dùng rượu là xấu ác. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ năm.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. Ý A-la-hán không thích ca múa, dù có nghe cũng không thích tiếng âm nhạc, cũng không thích mùi hương hoa. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ sáu.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán không nằm giường cao đẹp, ý cũng không nghĩ đến việc nằm trên giường cao đẹp. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ bảy.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán ăn đúng ngọ, sau giờ ngọ, đến sáng không được ăn lại. Ðược phép uống nước mật đường. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ tám

Ðức Phật lại bảo Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Thế gian có người đầu tóc dơ dáy, phải tự mình gội rửa đầu tóc. Gội rồi người đó liền vui mừng nói: “ Ðầu của ta đã hết cáu” Có người giữ tám giới này trong một ngày một đêm, trời sáng liền mừng, vui mừng liền nghĩ đến giới kinh của Phật như vậy. Nếu ở trong tâm con người có ý ác liền bỏ, thiện ý được sanh.

Ðức Phật dạy:

–Có người thân thể dơ bẩn phải vào nước để tắm rửa, thân thể đã được sạch sẽ, ra khỏi nước vui vẻ nói: “Thân ta hết bụi được nhẹ nhàng”. Nếu có người thọ trai giới trong một ngày một đêm, trời sáng liền vui mừng nghĩ đến lời chơn chánh của Phật, tự nghĩ khi nào được đắc đạo, khiến cho tâm ta được bất động không còn giong ruổi nữa, khiến cho tâm chí ta một lòng được đạo vô vi.

Ðức Phật dạy:

–Có người áo bị nhiều dơ bẩn, dùng nước tro để tẩy giặt sạch, người đó liền vui mừng. Nếu có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, trời sáng liền vui mừng, bèn nghĩ đến tỳ kheo tăng: “Trong tỳ kheo tăng có Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán”. Niệm tỳ kheo tăng là như vậy.

Ðức Phật dạy:

–Như người có tấm gương bị dơ bẩn, lau chùi chất dơ bẩn đi thì gương liền sáng ra. Có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, có tâm từ bi đối với thiên hạ, tâm được mở ra như mặt trời, như gương sáng, không còn ý sân hận. Nếu có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, xót thương thiên hạ, lắng lòng tự suy nghĩ, tự giữ ý cho ngay thẳng, tự nhớ nghĩ những điều xấu ác ở trong thân như vậy. Như vậy là không còn sân hận nữa.

Ðức Phật bảo Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Giữ tám giới tịnh này trong một ngày một đêm đừng cho thất thoát còn hơn là đem vàng bạc châu báu cúng dường cho tỳ kheo tăng vậy. Trong thiên hạ có mười sáu nước:

1- Ương Ca

2- Ma kiệt

3- Ca Di

4- Câu Tịch La

5- Cưu Lưu

6- Bát Xà Trà

7- A Ba Da

8- A Hoan Ðề Du

9- Chỉ Ðề Du

10- Việt Kỳ Du

11- Tốc Ma

12- Tốc Lại Tra

13- Việt Ta

14- Mạt La

15- Du Nặc

16- Kiếm Thiện Ðề.

Nếu đem bảo vật châu báu của mười sáu nước này để cúng dường tỳ kheo tăng cũng không bằng giữ trai giới trong một ngày một đêm. Giữ trai giới khiến cho người được giải thoát cuộc đời, còn đem tài vật để bố thí không thể khiến cho người ta được đắc đạo. Nay ta được Phật đạo cũng nhờ tám giới này vậy.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Người trong thiên hạ phần nhiều lo việc gia đình, vì vậy ta đem pháp môn này khiến cho họ trong một tháng, sáu ngày trai tịnh giữ tám giới, nếu có người hiền thiện muốn mau được đạo A-la-hán. Nếu muốn mau đạt đạo A-la-hán, nếu muốn được sanh lên trời, phải tự ngay thẳng tâm mình, giữ ý cho chuyên nhất, một tháng mười lăm ngày trai tịnh cũng tốt, hai mươi ngày trai tịnh cũng tốt. Nhiều người lo việc gia đình cho nên mỗi tháng giữ sáu ngày trai tịnh, bảy ngày trai tịnh ấy, thí như nước biển không thể đong lường được. Nếu ai giữ trai giới trong một ngày một đêm, phước đức người đó không thể tính được.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Hãy đưa vợ, con trở về, tụng niệm tám giới trai pháp chơn chánh này.

Ưu bà di Ðọa xá ca đến trước đức Phật đảnh lễ rồi lui ra.

 

PHẬT NÓI KINH “ƯU BÀ DI ÐỌA XÁ CA”.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12072)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10772)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17992)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9957)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10179)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12356)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15352)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11249)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14336)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12115)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12093)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10622)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12563)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14848)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12697)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16583)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19675)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12273)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14526)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12622)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13631)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9881)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11172)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9086)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12185)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13058)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15322)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12227)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11490)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19711)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant