Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Nói Kinh Bát Cát Tường Thần Chú

16 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 18530)
Phật Nói Kinh Bát Cát Tường Thần Chú

PHẬT NÓI KINH BÁT CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427, Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Đời Ngô, Nguyệt Thị Ưu Bà Tắc CHI KHIÊM

Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại La Duyệt Kỳ cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ Kheo đến dự. Bồ Tát, Trời, Người đều là nhóm của Di Lặc.

Đức Phật bảo Hiền Giả Xá Lợi Phất với các Tỳ Kheo:”Hãy đều một lòng lắng nghe !”

_Ở phương Đông, cách đây một hằng sa, có Đức Phật tên là An Ổn Chúc Lũy Mãn Cụ Túc Vương Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Tối Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Thế Giới ấy tên là Mãn Nguyện Sở Tụ

_Cách đây hai hằng sa, có Đức Phật tên là Cám Lưu Ly Cụ Túc Vương Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Tối Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Thế Giới ấy tên là Từ Ai Quang Minh

_Cách đây ba hằng sa, có Đức Phật tên là Khuyến Trợ Chúng Thiện Cụ Túc Vương Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Tối Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Thế Giới ấy tên là Hoan Hỷ Khoái Lạc

_Cách đây bốn hằng sa, có Đức Phật tên là Vô Ưu Đức Cụ Túc Vương Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Tối Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Thế Giới ấy tên là Nhất Thiết Lạc Nhập

_Cách đây năm hằng sa, có Đức Phật tên là Dược Sư Cụ Túc Vương Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Tối Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Thế Giới ấy tên là Mãn Nhất Thiết Trân Bảo Pháp

_Cách đây sáu hằng sa, có Đức Phật tên là Liên Hoa Cụ Túc Vương Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Tối Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Thế Giới ấy tên là Mãn Hương Danh Văn

_Cách đây bảy hằng sa, có Đức Phật tên là Toán Trạch Hợp Hội Cụ Túc Vương Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Tối Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Thế Giới ấy tên là Nhất Thiết Giải Thuyết Âm Thanh Viễn Văn

_Cách đây tám hằng sa, có Đức Phật tên là Giải Tán Nhất Thiết Phộc Cụ Túc Vương Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Tối Chính Giác ngày nay hiện đang nói Pháp. Thế Giới ấy tên là Nhất Thiết Giải Thoát

Đức Phật bảo Hiền Giả Xá Lợi Phất:”Các Phật Như Lai này không có chỗ nhiễm dính, vượt qua bốn Đạo chẳng nhận Tối Chính Giác. Quốc độ ấy thanh tịnh, không có năm Trược, không có ái dục, không có ý dơ. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nghe tên của tám Đức Phật này với quốc độ, thọ trì, phụng hành, phúng tụng, rộng vì người khác giải nói nghĩa ấy thời cuối cùng chẳng ngu si, Miệng nói ra lời nào thì không có sơ sót lầm lẫn, đầy đủ tướng tốt không có chỗ thiếu giảm, vô ương số năm chẳng bị thiếu thốn.

Người đó cuối cùng chẳng bị đọa trong Địa Ngục Thái Sơn, quỷ đói, súc sinh. Người đó cuối cùng chẳng vọng nhận lấy La Hán, Bích Chi Phật Đạo để vào Bát Nê Hoàn (Parivarnïa), thảy đều chờ được Đạo Bình Đẳng vô thượng, thường gặp Đà Lân Ni, thường hành Bồ Tát Đạo, được Công Đức vô lượng.

Đệ Nhất Tứ Thiên Vương thường ủng hộ, chẳng bị bắt giữ, chẳng bị trộm cướp gây thương tích. Chẳng bị Trời, Rồng, Quỷ Thần quấy nhiễu. Duyệt Xoa Quỷ Thần, Cổ Đạo Quỷ Thần, hoặc người, hoặc Phi Nhân đều chẳng thể được dịp thuận tiện giết hại. Trừ Túc Mệnh (mệnh theo đời trước) của kẻ ấy thời chẳng thể xin.

Nếu có tật bệnh, quạ kêu, mộng ác, các Ma quấy nhiễu, sợ hãi khiến lông dựng đứng thời thường nên đọc Kinh Chú của Kinh Bát Cát Tường Thần Chú, liền được trừ khỏi”

Lúc đó Đức Phật nói Kệ rằng:

 

Nếu có trì Kinh đó

Tên tám Phật, quốc độ

Chẳng đọa ba nẻo ác

Mau được Đạo vô thượng

Tự giác, phát Đạo Ý

Thấy Phật liền khai giải

TRong, ngoài thường vui vẻ

Tâm cúng dường, cung kính

Ức kiếp a tăng kỳ

Hành ác thảy tiêu trừ

Trì tám Cát Tường đó

Mau được hiểu rõ Giáo

 

Người cúng sự Kinh đó

Sinh trong hoa ngàn cánh

Trân bảo vì họ tuôn

Sắc tượng tốt vô thượng

 

Người nghe Tôn Kinh đó

Tôn kính tin, ưa thích

Phụng trì, phúng tụng, đọc

Trong sạch không phóng dật

 

Người nữ tin Kinh đó

Kính trọng không nịnh hót

Vứt bỏ nữ, làm Nam

Thông Minh thường thông tuệ

 

Phụng trì tên tám Phật

Ra vào giặc chẳng hại

Đao Binh, nước, lửa, độc

Các Tà chẳng thể phạm

 

Yêu thích phụng Kinh đó

Các Ma chẳng thể hại

Quỷ Thần, các quan chức

Không thể gây nhiễu loạn

Phi hành đến các cõi

Chỗ ở đầy niềm vui

Tâm ý Chính, không Tà

Thấy Phật rất vui vẻ.

Sinh ra thường gặp Phật

Tâm đều thích phụng sự

Trừ tất cả chúng ác

Mau được Đạo Nê Hoàn (Nirvanïa:Niết Bàn)

TInh tiến không lười biếng

Lìa bỏ duyên bám dính

Vì người đẽo Trực Nho (học trò ngay thẳng)

 

Phụng trì tên tám Phật

Dũng mãnh giáng chúng Ma

Sức mạnh như Kim Cương

Đầy đủ tướng đoan chính

Tất cả không thể sánh

Bố thí không tham lam

Sinh cự ức vạn nhà

Trộm cướp với oan gia

Tự nhiên đều tiêu trừ

Tật bệnh, việc huyện quan

Quạ kêu, các mộng ác

Trì tên tám Phật đó

Chú vào, liền trừ khỏi

 

Người phụng trì Kinh đó

Nhóm Bồ Tát Di Lặc

Đệ Nhất Tứ Thiên Vương

Thường cùng nhau ủng hộ

Ước nguyện đểu đạt được

Hớn hở rất vui vẻ

Người một lòng tin thích

Phước Đức cũng như vậy.

Bấy giờ các Bồ Tát: Bạt Đà Hòa Bồ Tát, La Liên Na Kiệt Bồ Tát, Kiều Nhật Đâu Bồ Tát, Na La Đạt Bồ Tát, Tu Thâm Di Bồ Tát, Ma Ha Tu Hòa Tát Hòa Bồ Tát, Nhân Chi Đạt Bồ Tát, Hòa Luân Điều Bồ Tát. Tám người đó cầu Đạo từ vô ương số kiếp đến ngày nay chưa nhận lấy Phật. Nguyện rằng:”Khiến cho người dân trong Thiên Hạmười phương đều được Phật Đạo. Nếu có việc gấp rút đều nên họ tên gọi (danh tự) tám người chúng Ta, liền được giải thoát. Lúc thọ mệnh muốn dứt thời tám người chúng Ta liền sẽ bay đến đón rước”

Các Bồ Tát, nhóm Di Lặc, Đệ Nhất Tứ Thiên Vương đều bạch Phật rằng:”Con sẽ ủng hộ người trì Kinh Bát Cát Tường Thần Chú cùng với con và sức mạnh khiến cho các tật bệnh đều được trừ khỏi”

Đức Phật nói Kinh xong thời Xá Lợi Phất, Di Lặc Bồ Tát với các Tỳ Kheo, Trời, Rồng, Quỷ Thần, A Tu Luân Vương đều rất vui vẻ, ưa thích nghe.

 

PHẬT NÓI KINH BÁT CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

(Hết)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11645)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11970)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11358)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12075)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10774)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17995)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9960)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12012)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12424)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10626)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12566)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13179)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16587)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19678)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13116)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11963)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12626)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13634)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9087)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12189)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12205)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16617)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19715)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10701)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant