Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật

06 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 14072)
Kinh Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật

KINH PHẬT THUYẾT DI-LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455, Nguyên tác: [1]

- Hán dịch: Đường Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh

- Việt dịch: Thích nữ Như Phúc, Chùa Kim Quang, Nha Trang.

--- o0o --- 


Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Như Lai ở trên đỉnh núi Linh Thứu, thành Vương Xá cùng đại chúng Bí-sô. Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc đại trí, bậc tướng đệ nhất về giáo pháp trong hàng đệ tử Phật. Vì thương tưởng chúng sanh nên ngài rời tòa đứng dậy, sửa y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, cung kính chắp tay bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Con có ít điều muốn thưa hỏi, cúi xin Ngài cho phép.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:

- Thầy cứ tùy ý hỏi, Ta sẽ trả lời.

Tôn giả Xá Lợi Phất dùng kệ thỉnh hỏi đức Thế Tôn:

- Phật đã thọ ký cho

Tương lai Phật hạ sanh

Hiệu Di Lặc Từ Thị

Như trình tự kinh thuyết

Cúi xin Phật Thế Tôn 

Tóm tắt và phân tích

Oai đức thần thông kia 

Nay con mong muốn nghe.

Phật bảo Xá Lợi Tử:

- Nên chí tâm lắng nghe

Tương lai Phật Từ Thị 

Ta giảng rộng cho thầy

Thời ấy nước biển cả

Giảm dần bớt ba ngàn

Hai trăm du-thiện-na

Bồi đất thành đường đi

Cõi Ta-bà rộng thêm

Hơn vạn du-thiện-na

Chúng sanh ở cõi ấy

Đầy đủ và sung mãn

Cõi nước giàu, tốt đẹp 

Không hình phạt, tai nạn

Các nam nữ cõi này 

Sanh ra từ thiện nghiệp

Đất không có gai góc 

Cỏ xanh mọc mềm mại

Như trải thảm nhung êm 

Người đi rất vừa ý

Tự nhiên sanh gạo thơm 

Đầy đủ chất thơm ngon

Các cây sanh y phục

Màu sắc đều tốt đẹp

Cây cao ba câu-xá 

Hoa quả rất sum suê

Người trong cõi nước này 

Tuổi thọ tám vạn năm

Không có các bệnh khổ 

Thân tâm thường an lạc

Đủ các tướng đoan nghiêm 

Sắc lực đều viên mãn

Chỉ còn ba nỗi lo: 

Ăn, già, đại tiểu tiện

Con gái năm trăm tuổi 

Mới làm lễ kết hôn

Nếu người đại tiểu tiện 

Đất nứt ra, khép lại

Khi người sắp qua đời 

Tự đến rừng Thi Lâm

Có thành Diệu Tràng Tướng 

Kinh đô của Luân vương

Dài mười hai do-tuần

Rộng bằng bảy do-tuần

Người sống trong thành ấy

Đều đã trồng nhân tốt

Thành này đức cao vời 

Ai ở cũng an vui

Lầu đài đều tốt đẹp 

Do bảy báu tạo thành

Đại sảnh và các cửa 

Trang hoàng bằng châu báu

Các ao báu quanh thành 

Đầy những trân bảo quý

Hoa đẹp nở đầy vườn 

Nhiều chim đẹp líu lo

Bảy hàng cây đa-la 

Bao bọc chung quanh thành

Cũng trang hoàng bảy báu

Lưới báu và phong linh 

Gió thoảng vào cây báu 

Tạo âm thanh tuyệt vời

Giống như nhạc bát âm 

Người nghe sanh hoan hỷ

Nơi nơi có ao hồ 

Phủ đầy những hoa đẹp

Công viên hoa thơm ngát 

Làm đẹp thành quách này

Hoàng đế cai trị nước 

Danh hiệu là Hướng Khư

Kim luân vương cai trị 

Giàu sang nhiều oai lực

Phước đức nghiệp của vua

Hùng mạnh kiêm bốn binh

Thành tựu bởi bảy báu 

Vua có đủ ngàn con

Bốn biển đều an vui 

Không có việc chiến chinh

Chánh pháp dạy quần sanh 

Hình pháp đều bình đẳng

Vua có bốn kho tàng

Mỗi kho ở một hướng

Cả bốn kho đều có 

Trăm vạn ức trân bảo

Kho tàng Băng-kiệt-la 

Ở nước Yết-lăng-già

Kho tàng Bát-trục-ca

Ở nước Mật-hy-la

Kho Y-la-bát-la

Đặt tại nước Kiền-đà

Kho tàng tên Hướng-khư 

Nước Ba-na-bặc-tư

Bốn kho tàng kín này

Thuộc về vua Hướng Khư

Do trăm phước sanh ra 

Quả báo tu thành tựu

Đại thần bảo vệ nước

Bà-la-môn Thiện Tịnh

Thông đạt cả bốn minh 

Là uốc sư học rộng

bác học luận triết

Khéo dạy người nghe nhận

Thông tuệrõ ràng

Tất cả đều tường tận

Vợ ông tên Tịnh Diệu 

phu nhân đại thần

Tướng đoan trang xinh đẹp 

Ai gặp cũng mến yêu

Đại trượng phu Từ Thị 

Từ cõi trời Đâu Suất

Thác vào thai phu nhân 

Làm nơi sanh cuối cùng

Phu nhân mang đại thánh 

Đủ mười tháng cưu mang

Một hôm Từ tôn mẫu 

Đi dạo vườn hoa đẹp

Ở trong vườn hoa đó

Không ngồi cũng không nằm

Khoan thai vin cành hoa 

Đản sanh Ngài Từ Thị

Bấy giờ bậc tối thắng

Hông phải mẹ chui ra

Như mặt trời rực rỡ 

Tỏa ánh sáng muôn phương

Không nhiễm mùi tục lụy 

Như hoa sen khỏi nước

Ánh sáng chiếu ba cõi 

Đều quy ngưỡng đại từ

Khi Bồ-tát giáng sanh

Chư thiên, Đế Thích vương

Đưa tay đỡ Bồ-tát 

Mừng gặp Lưỡng túc tôn

Bồ-tát ngay lúc này 

Tự nhiên đi bảy bước

Và khắp dưới chân Ngài 

Hiện ra hoa sen báu

Ngài nhìn khắp mười phương 

Bảo hết các thiên nhân

Này thân cuối của Ta

Chứng Niết-bàn vô sanh

Rồng tuôn nước trong mát

Tắm gội sạch thân Ngài

Trời rải hoa tuyệt đẹp 

Bao phủ đấng Đại từ

Ai cũng tâm hy hữu 

Bảo vệ nơi Bồ-tát

Bảo mẫu bế hài nhi 

Ba mươi hai tướng tốt

Đầy đủ ánh hào quang 

Đem trao cho từ mẫu

Xa giá để cung nghinh 

Trang hoàng bằng châu báu

Mẹ con cũng vào thành 

Chư thiên theo hầu hạ

Muôn ngàn âm nhạc hay 

Dẫn đường trở về cung

Từ Thị vào thành quách 

Hoa trời như mưa rơi

Ngày đản sanh Bồ-tát 

Các thể nữ mang thai

Đều được thân an ổn

Sanh con trai trí tuệ

Phụ thân Từ Thiện Tịnh 

Thấy con đẹp diệu kỳ

Đủ ba mươi hai tướng 

Lòng rất đổi vui mừng 

Cha xem số cho con

Biết con có hai tướng

Ở đời làm Chuyển luân 

Xuất gia thành Chánh giác

Bồ-tát lúc trưởng thành 

Từ mẫn các quần sanh

Khổ đau trong hiểm nạn 

Mãi quanh quẩn luân hồi

Thân như vàng sáng chói 

Tiếng giống đại Phạm Vương

Mắt cánh sen xanh biếc 

Các chi đều tròn đầy

Cao tám mươi khuỷu tay 

Vai hai mươi khuỷu tay

Mặt rộng, vai cân xứng 

Xinh đẹp như trăng tròn

Bồ-tát thông tài nghệ

Khéo giáo hóa mọi người

Đến cần cầu xin học

Tám vạn bốn ngàn người

Vua Hướng Khư nghe tiếng 

Xây dựng tràng bảy báu

Tràng cao bảy mươi thước

Rộng mười sáu thước hơn

Bảo tràng đã lập xong 

Vua phát tâm đại xả

Bố thí Bà-la-môn 

Mở hội thí không hạn

Khi ấy các Phạm chí

Số có một ngàn người

Được tràng báu đẹp này 

Chỉ khoảnh khắc vỡ vụn 

Bồ-tát thấy như vậy 

Nghĩ cuộc đời cũng thế 

Sanh tử khổ lao lung

Sao không cầu giải thoát?

Nếu mong đạo tịch diệt 

Hãy bỏ tục xuất gia

Trong sanh già bệnh chết

Phải làm sao ra khỏi

Từ Thị phát nguyện xong

Tám vạn bốn ngàn người

Đều sanh tâm nhàm chán

Theo tu tập phạm hạnh

Ngày đêm đều phát tâm 

Xuất gia bỏ thế tục

Đến nửa đêm hôm ấy

Chứng đắc địa Đẳng giác

Có một cây giác ngộ

Cũng gọi cây Long Hoa

Cao bốn du-thiện-na

Sum suê và râm mát

Nhánh tỏa đều bốn mặt 

Bóng sáu câu-lô-xá

Từ Thị đại bi tôn 

Thành Chánh giác dưới cây

Tối thắng trong mọi người 

Có tám tiếng Phạm âm

Thuyết pháp độ chúng sanh 

Giúp xa lìa phiền não

Khổ và nơi sanh khổ

Tất cả được diệt trừ

Siêng tu tám chánh đạo 

Đến bờ giác Niết-bàn 

Nói bốn pháp chơn đế 

Cho những người thanh, tín

Được nghe pháp vi diệu 

Chí thành vâng làm theo

Trong vườn hoa tươi đẹp

Chúng tập hợp như mây

Đầy trăm ngàn do-tuần 

quyến thuộc đông đủ

Kim luân vương Hướng Khư 

Nghe pháp sâu nhiệm mầu

Bỏ lâu đài châu báu 

Lòng cầu khẩn xuất gia

Tám vạn bốn ngàn người 

Theo vua đi xuất gia

Và tám vạn bốn ngàn 

Thanh niên Bà-la-môn 

Nghe vua bỏ trần tục

Cũng cầu xin xuất gia

Trưởng giả chủ tàng thần 

Có tên là Thiện Tài

Cùng ngàn người bà con 

Cũng đến xin xuất gia

Bảo nữ Tỳ-xá-khư 

Cùng tất cả thị tùng

Tám vạn bốn ngàn người

Cũng đến xin xuất gia

Và hơn số trăm ngàn 

Chúng hiện nam thiện nữ

Nghe Phật giảng pháp mầu

Cũng đến xin xuất gia

Vô thượng Chúng trung tôn 

Thánh chúa Đại từ bi

Xem khắp tâm chúng sanh

Mà giảng nói pháp yếu

Bảo đại chúng nên biết 

Thích Ca Phật từ bi

Dạy người tu chánh đạo 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc đem vòng hoa thơm 

Tràng phan và lọng báu

Cúng dường Phật Thích Ca 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc chiên-đàn, trầm thủy

Hương bột để tô phết

Cúng dường tháp Mâu-Ni 

Nay sanh trong pháp Ta

Quy y Phật, Pháp, Tăng 

Thường cung kính thân cận

Chuyên tu những hạnh thiện 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc đối với pháp Phật 

Vâng thọ các kinh điển

Khéo giữ không khiếm khuyết 

Nay sanh trong pháp Ta

Đối với Tăng bốn phương 

Cúng thực phẩm, y phục

Tất cả thuốc thang hay 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc giữ bốn ngày trai 

thập trai, nguyệt trai 

Thọ trì tám trai giới 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc tu ba thần thông 

Truyền trao dạy thần cảnh

Giáo hóa chúng Thanh văn

Giúp họ đoạn phiền não

Hội thứ nhất thuyết pháp 

Độ khắp chúng Thanh văn

Chín mươi sáu ức người 

Khiến khỏi chướng phiền não

Hội thứ hai thuyết pháp 

Độ khắp chúng Thanh văn

Chín mươi bốn ức người 

Vượt khỏi biển vô minh

Hội thứ ba thuyết pháp 

Độ khắp chúng Thanh văn

Chín mươi hai ức người 

Khéo biết điều phục tâm

Ba lần chuyển pháp luân 

Trời, người tâm thuần tịnh

Đem tất cả đệ tử 

Vào trong thành khất thực

Khi đến thành Diệu Tràng 

Các nẻo đường trang hoàng

Để cúng dường đức Phật 

Trời mưa hoa Mạn-đà

Tứ thiên vương, Phạm vương 

Cùng tất cả thiên chúng

Cúng dường hương hoa thơm 

Hầu bên đấng Đại từ

Chư thiên nhiều oai đức 

Cúng y phục tốt đẹp

Khắp thị thành rộn rịp 

Chiêm ngưỡng đại Y vương

Mang hoa thơm châu báu

Rải sạch các nẻo đường

Phủ đầy trên mặt đất 

Ví như đổ-la-miên

Âm nhạctràng phan 

Dọc hai bên đường đi

Chúng nhân thiên Đế Thích 

Tán thán đức Thế Tôn 

Nam mô Thiên Thượng Tôn 

Nam mô Phật Tối Thắng

Lành thay đấng Như Lai 

Thương xót khắp trần gian

Có trời nhiều oai đức 

Đang làm vua các ma

Nhất tâm cung kính lễ 

Quy ngưỡng đấng Đạo sư

Pham vương và thiên chúng 

Cùng quyến thuộc vây quanh

Mang âm thanh Phạm thiên 

Xiển dương pháp vi diệu

Ở trong thế giới này

Phần đông A-la-hán

Dứt sạch nghiệp hữu lậu 

Khổ phiền não không còn

Chúng trời, người, long thần 

Càn-thát, A-tu-la

La-sát và Dược-xoa 

Đều hoan hỷ cúng dường

Đại chúng lúc bấy giờ 

Đoạn chướng, trừ nghi hoặc

Vượt khỏi dòng sanh tử 

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Tất cả các đại chúng

Không tham đắm của cải

Vô ngãngã sở 

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Tất cả các đại chúng

Phá vỡ lưới tham ái

Tâm tịnh lự viên mãn

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thiên nhân tôn Từ Thị 

Thương tưởng chúng hữu tình 

Sáu vạn năm ở đời 

Thuyết pháp độ chúng sanh

Giáo hóa trăm ngàn ức 

Thoát khỏi biển phiền não

Người đủ duyên độ hết 

Mới nhập thành Niết-bàn

Từ Thị đại bi tôn 

Sau khi nhập Niết-bàn

Chánh pháp trụ ở đời

Cũng đủ sáu vạn năm

Người nào trong pháp Ta

Tâm tin nhận sâu xa

Tương lai khi hạ sanh 

Ắt thờ đấng đại bi

Nếu có người thông tuệ 

Nghe nói các việc này 

Ai mà chẳng vui mừng 

Nguyện gặp Phật Di-Lặc

Người nào cầu giải thoát 

Mong gặp hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam bảo 

Nỗ lực chớ buông lung

Khi ấy, Xá Lợi Phấtđại chúng nghe đức Thế Tôn dạy về những sự việc của Ngài Từ Thị trong tương lai rồi, Phật lại dạy Xá Lợi Phất:

- Có người nam, người nữ nào nghe pháp này mà thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người khác tu hành theo giáo pháp, cúng dường hương hoa và ghi chép kinh điển, tương lai những người đó chắc chắn được gặp Phật Di Lặc hạ sanh, ở trong ba hội đều được nhờ ân cứu độ.

Lúc đức Phật nói bài kệ này, tôn giả Xá Lợi Phất và các đại chúng hoan hỷ tin thọ, đảnh lễ, phụng hành

KINH PHẬT THUYẾT DI-LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT

 

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11613)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11091)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12052)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10744)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9934)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10160)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15323)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14313)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12076)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15313)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12065)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12542)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13145)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14775)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12639)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16525)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19623)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13095)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12233)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11818)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10879)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13471)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11928)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11830)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14493)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13596)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12876)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9850)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9054)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13030)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10284)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12173)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15284)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16577)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11449)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14253)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19658)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24567)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10667)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant