Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật

06 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 14082)
Kinh Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật

KINH PHẬT THUYẾT DI-LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455, Nguyên tác: [1]

- Hán dịch: Đường Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh

- Việt dịch: Thích nữ Như Phúc, Chùa Kim Quang, Nha Trang.

--- o0o --- 


Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Như Lai ở trên đỉnh núi Linh Thứu, thành Vương Xá cùng đại chúng Bí-sô. Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc đại trí, bậc tướng đệ nhất về giáo pháp trong hàng đệ tử Phật. Vì thương tưởng chúng sanh nên ngài rời tòa đứng dậy, sửa y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, cung kính chắp tay bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Con có ít điều muốn thưa hỏi, cúi xin Ngài cho phép.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:

- Thầy cứ tùy ý hỏi, Ta sẽ trả lời.

Tôn giả Xá Lợi Phất dùng kệ thỉnh hỏi đức Thế Tôn:

- Phật đã thọ ký cho

Tương lai Phật hạ sanh

Hiệu Di Lặc Từ Thị

Như trình tự kinh thuyết

Cúi xin Phật Thế Tôn 

Tóm tắt và phân tích

Oai đức thần thông kia 

Nay con mong muốn nghe.

Phật bảo Xá Lợi Tử:

- Nên chí tâm lắng nghe

Tương lai Phật Từ Thị 

Ta giảng rộng cho thầy

Thời ấy nước biển cả

Giảm dần bớt ba ngàn

Hai trăm du-thiện-na

Bồi đất thành đường đi

Cõi Ta-bà rộng thêm

Hơn vạn du-thiện-na

Chúng sanh ở cõi ấy

Đầy đủ và sung mãn

Cõi nước giàu, tốt đẹp 

Không hình phạt, tai nạn

Các nam nữ cõi này 

Sanh ra từ thiện nghiệp

Đất không có gai góc 

Cỏ xanh mọc mềm mại

Như trải thảm nhung êm 

Người đi rất vừa ý

Tự nhiên sanh gạo thơm 

Đầy đủ chất thơm ngon

Các cây sanh y phục

Màu sắc đều tốt đẹp

Cây cao ba câu-xá 

Hoa quả rất sum suê

Người trong cõi nước này 

Tuổi thọ tám vạn năm

Không có các bệnh khổ 

Thân tâm thường an lạc

Đủ các tướng đoan nghiêm 

Sắc lực đều viên mãn

Chỉ còn ba nỗi lo: 

Ăn, già, đại tiểu tiện

Con gái năm trăm tuổi 

Mới làm lễ kết hôn

Nếu người đại tiểu tiện 

Đất nứt ra, khép lại

Khi người sắp qua đời 

Tự đến rừng Thi Lâm

Có thành Diệu Tràng Tướng 

Kinh đô của Luân vương

Dài mười hai do-tuần

Rộng bằng bảy do-tuần

Người sống trong thành ấy

Đều đã trồng nhân tốt

Thành này đức cao vời 

Ai ở cũng an vui

Lầu đài đều tốt đẹp 

Do bảy báu tạo thành

Đại sảnh và các cửa 

Trang hoàng bằng châu báu

Các ao báu quanh thành 

Đầy những trân bảo quý

Hoa đẹp nở đầy vườn 

Nhiều chim đẹp líu lo

Bảy hàng cây đa-la 

Bao bọc chung quanh thành

Cũng trang hoàng bảy báu

Lưới báu và phong linh 

Gió thoảng vào cây báu 

Tạo âm thanh tuyệt vời

Giống như nhạc bát âm 

Người nghe sanh hoan hỷ

Nơi nơi có ao hồ 

Phủ đầy những hoa đẹp

Công viên hoa thơm ngát 

Làm đẹp thành quách này

Hoàng đế cai trị nước 

Danh hiệu là Hướng Khư

Kim luân vương cai trị 

Giàu sang nhiều oai lực

Phước đức nghiệp của vua

Hùng mạnh kiêm bốn binh

Thành tựu bởi bảy báu 

Vua có đủ ngàn con

Bốn biển đều an vui 

Không có việc chiến chinh

Chánh pháp dạy quần sanh 

Hình pháp đều bình đẳng

Vua có bốn kho tàng

Mỗi kho ở một hướng

Cả bốn kho đều có 

Trăm vạn ức trân bảo

Kho tàng Băng-kiệt-la 

Ở nước Yết-lăng-già

Kho tàng Bát-trục-ca

Ở nước Mật-hy-la

Kho Y-la-bát-la

Đặt tại nước Kiền-đà

Kho tàng tên Hướng-khư 

Nước Ba-na-bặc-tư

Bốn kho tàng kín này

Thuộc về vua Hướng Khư

Do trăm phước sanh ra 

Quả báo tu thành tựu

Đại thần bảo vệ nước

Bà-la-môn Thiện Tịnh

Thông đạt cả bốn minh 

Là uốc sư học rộng

bác học luận triết

Khéo dạy người nghe nhận

Thông tuệrõ ràng

Tất cả đều tường tận

Vợ ông tên Tịnh Diệu 

phu nhân đại thần

Tướng đoan trang xinh đẹp 

Ai gặp cũng mến yêu

Đại trượng phu Từ Thị 

Từ cõi trời Đâu Suất

Thác vào thai phu nhân 

Làm nơi sanh cuối cùng

Phu nhân mang đại thánh 

Đủ mười tháng cưu mang

Một hôm Từ tôn mẫu 

Đi dạo vườn hoa đẹp

Ở trong vườn hoa đó

Không ngồi cũng không nằm

Khoan thai vin cành hoa 

Đản sanh Ngài Từ Thị

Bấy giờ bậc tối thắng

Hông phải mẹ chui ra

Như mặt trời rực rỡ 

Tỏa ánh sáng muôn phương

Không nhiễm mùi tục lụy 

Như hoa sen khỏi nước

Ánh sáng chiếu ba cõi 

Đều quy ngưỡng đại từ

Khi Bồ-tát giáng sanh

Chư thiên, Đế Thích vương

Đưa tay đỡ Bồ-tát 

Mừng gặp Lưỡng túc tôn

Bồ-tát ngay lúc này 

Tự nhiên đi bảy bước

Và khắp dưới chân Ngài 

Hiện ra hoa sen báu

Ngài nhìn khắp mười phương 

Bảo hết các thiên nhân

Này thân cuối của Ta

Chứng Niết-bàn vô sanh

Rồng tuôn nước trong mát

Tắm gội sạch thân Ngài

Trời rải hoa tuyệt đẹp 

Bao phủ đấng Đại từ

Ai cũng tâm hy hữu 

Bảo vệ nơi Bồ-tát

Bảo mẫu bế hài nhi 

Ba mươi hai tướng tốt

Đầy đủ ánh hào quang 

Đem trao cho từ mẫu

Xa giá để cung nghinh 

Trang hoàng bằng châu báu

Mẹ con cũng vào thành 

Chư thiên theo hầu hạ

Muôn ngàn âm nhạc hay 

Dẫn đường trở về cung

Từ Thị vào thành quách 

Hoa trời như mưa rơi

Ngày đản sanh Bồ-tát 

Các thể nữ mang thai

Đều được thân an ổn

Sanh con trai trí tuệ

Phụ thân Từ Thiện Tịnh 

Thấy con đẹp diệu kỳ

Đủ ba mươi hai tướng 

Lòng rất đổi vui mừng 

Cha xem số cho con

Biết con có hai tướng

Ở đời làm Chuyển luân 

Xuất gia thành Chánh giác

Bồ-tát lúc trưởng thành 

Từ mẫn các quần sanh

Khổ đau trong hiểm nạn 

Mãi quanh quẩn luân hồi

Thân như vàng sáng chói 

Tiếng giống đại Phạm Vương

Mắt cánh sen xanh biếc 

Các chi đều tròn đầy

Cao tám mươi khuỷu tay 

Vai hai mươi khuỷu tay

Mặt rộng, vai cân xứng 

Xinh đẹp như trăng tròn

Bồ-tát thông tài nghệ

Khéo giáo hóa mọi người

Đến cần cầu xin học

Tám vạn bốn ngàn người

Vua Hướng Khư nghe tiếng 

Xây dựng tràng bảy báu

Tràng cao bảy mươi thước

Rộng mười sáu thước hơn

Bảo tràng đã lập xong 

Vua phát tâm đại xả

Bố thí Bà-la-môn 

Mở hội thí không hạn

Khi ấy các Phạm chí

Số có một ngàn người

Được tràng báu đẹp này 

Chỉ khoảnh khắc vỡ vụn 

Bồ-tát thấy như vậy 

Nghĩ cuộc đời cũng thế 

Sanh tử khổ lao lung

Sao không cầu giải thoát?

Nếu mong đạo tịch diệt 

Hãy bỏ tục xuất gia

Trong sanh già bệnh chết

Phải làm sao ra khỏi

Từ Thị phát nguyện xong

Tám vạn bốn ngàn người

Đều sanh tâm nhàm chán

Theo tu tập phạm hạnh

Ngày đêm đều phát tâm 

Xuất gia bỏ thế tục

Đến nửa đêm hôm ấy

Chứng đắc địa Đẳng giác

Có một cây giác ngộ

Cũng gọi cây Long Hoa

Cao bốn du-thiện-na

Sum suê và râm mát

Nhánh tỏa đều bốn mặt 

Bóng sáu câu-lô-xá

Từ Thị đại bi tôn 

Thành Chánh giác dưới cây

Tối thắng trong mọi người 

Có tám tiếng Phạm âm

Thuyết pháp độ chúng sanh 

Giúp xa lìa phiền não

Khổ và nơi sanh khổ

Tất cả được diệt trừ

Siêng tu tám chánh đạo 

Đến bờ giác Niết-bàn 

Nói bốn pháp chơn đế 

Cho những người thanh, tín

Được nghe pháp vi diệu 

Chí thành vâng làm theo

Trong vườn hoa tươi đẹp

Chúng tập hợp như mây

Đầy trăm ngàn do-tuần 

quyến thuộc đông đủ

Kim luân vương Hướng Khư 

Nghe pháp sâu nhiệm mầu

Bỏ lâu đài châu báu 

Lòng cầu khẩn xuất gia

Tám vạn bốn ngàn người 

Theo vua đi xuất gia

Và tám vạn bốn ngàn 

Thanh niên Bà-la-môn 

Nghe vua bỏ trần tục

Cũng cầu xin xuất gia

Trưởng giả chủ tàng thần 

Có tên là Thiện Tài

Cùng ngàn người bà con 

Cũng đến xin xuất gia

Bảo nữ Tỳ-xá-khư 

Cùng tất cả thị tùng

Tám vạn bốn ngàn người

Cũng đến xin xuất gia

Và hơn số trăm ngàn 

Chúng hiện nam thiện nữ

Nghe Phật giảng pháp mầu

Cũng đến xin xuất gia

Vô thượng Chúng trung tôn 

Thánh chúa Đại từ bi

Xem khắp tâm chúng sanh

Mà giảng nói pháp yếu

Bảo đại chúng nên biết 

Thích Ca Phật từ bi

Dạy người tu chánh đạo 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc đem vòng hoa thơm 

Tràng phan và lọng báu

Cúng dường Phật Thích Ca 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc chiên-đàn, trầm thủy

Hương bột để tô phết

Cúng dường tháp Mâu-Ni 

Nay sanh trong pháp Ta

Quy y Phật, Pháp, Tăng 

Thường cung kính thân cận

Chuyên tu những hạnh thiện 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc đối với pháp Phật 

Vâng thọ các kinh điển

Khéo giữ không khiếm khuyết 

Nay sanh trong pháp Ta

Đối với Tăng bốn phương 

Cúng thực phẩm, y phục

Tất cả thuốc thang hay 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc giữ bốn ngày trai 

thập trai, nguyệt trai 

Thọ trì tám trai giới 

Nay sanh trong pháp Ta

Hoặc tu ba thần thông 

Truyền trao dạy thần cảnh

Giáo hóa chúng Thanh văn

Giúp họ đoạn phiền não

Hội thứ nhất thuyết pháp 

Độ khắp chúng Thanh văn

Chín mươi sáu ức người 

Khiến khỏi chướng phiền não

Hội thứ hai thuyết pháp 

Độ khắp chúng Thanh văn

Chín mươi bốn ức người 

Vượt khỏi biển vô minh

Hội thứ ba thuyết pháp 

Độ khắp chúng Thanh văn

Chín mươi hai ức người 

Khéo biết điều phục tâm

Ba lần chuyển pháp luân 

Trời, người tâm thuần tịnh

Đem tất cả đệ tử 

Vào trong thành khất thực

Khi đến thành Diệu Tràng 

Các nẻo đường trang hoàng

Để cúng dường đức Phật 

Trời mưa hoa Mạn-đà

Tứ thiên vương, Phạm vương 

Cùng tất cả thiên chúng

Cúng dường hương hoa thơm 

Hầu bên đấng Đại từ

Chư thiên nhiều oai đức 

Cúng y phục tốt đẹp

Khắp thị thành rộn rịp 

Chiêm ngưỡng đại Y vương

Mang hoa thơm châu báu

Rải sạch các nẻo đường

Phủ đầy trên mặt đất 

Ví như đổ-la-miên

Âm nhạctràng phan 

Dọc hai bên đường đi

Chúng nhân thiên Đế Thích 

Tán thán đức Thế Tôn 

Nam mô Thiên Thượng Tôn 

Nam mô Phật Tối Thắng

Lành thay đấng Như Lai 

Thương xót khắp trần gian

Có trời nhiều oai đức 

Đang làm vua các ma

Nhất tâm cung kính lễ 

Quy ngưỡng đấng Đạo sư

Pham vương và thiên chúng 

Cùng quyến thuộc vây quanh

Mang âm thanh Phạm thiên 

Xiển dương pháp vi diệu

Ở trong thế giới này

Phần đông A-la-hán

Dứt sạch nghiệp hữu lậu 

Khổ phiền não không còn

Chúng trời, người, long thần 

Càn-thát, A-tu-la

La-sát và Dược-xoa 

Đều hoan hỷ cúng dường

Đại chúng lúc bấy giờ 

Đoạn chướng, trừ nghi hoặc

Vượt khỏi dòng sanh tử 

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Tất cả các đại chúng

Không tham đắm của cải

Vô ngãngã sở 

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Tất cả các đại chúng

Phá vỡ lưới tham ái

Tâm tịnh lự viên mãn

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thiên nhân tôn Từ Thị 

Thương tưởng chúng hữu tình 

Sáu vạn năm ở đời 

Thuyết pháp độ chúng sanh

Giáo hóa trăm ngàn ức 

Thoát khỏi biển phiền não

Người đủ duyên độ hết 

Mới nhập thành Niết-bàn

Từ Thị đại bi tôn 

Sau khi nhập Niết-bàn

Chánh pháp trụ ở đời

Cũng đủ sáu vạn năm

Người nào trong pháp Ta

Tâm tin nhận sâu xa

Tương lai khi hạ sanh 

Ắt thờ đấng đại bi

Nếu có người thông tuệ 

Nghe nói các việc này 

Ai mà chẳng vui mừng 

Nguyện gặp Phật Di-Lặc

Người nào cầu giải thoát 

Mong gặp hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam bảo 

Nỗ lực chớ buông lung

Khi ấy, Xá Lợi Phấtđại chúng nghe đức Thế Tôn dạy về những sự việc của Ngài Từ Thị trong tương lai rồi, Phật lại dạy Xá Lợi Phất:

- Có người nam, người nữ nào nghe pháp này mà thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người khác tu hành theo giáo pháp, cúng dường hương hoa và ghi chép kinh điển, tương lai những người đó chắc chắn được gặp Phật Di Lặc hạ sanh, ở trong ba hội đều được nhờ ân cứu độ.

Lúc đức Phật nói bài kệ này, tôn giả Xá Lợi Phất và các đại chúng hoan hỷ tin thọ, đảnh lễ, phụng hành

KINH PHẬT THUYẾT DI-LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT

 

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33266)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6552)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11294)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30408)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30439)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7989)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12206)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12266)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11610)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12838)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34795)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9852)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52276)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10757)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10534)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10722)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13093)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16296)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21856)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9630)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7130)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10403)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12771)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12802)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16240)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16541)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13873)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16601)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12136)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13835)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14336)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9220)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11765)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11285)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16334)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14349)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16196)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12701)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12090)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11802)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15672)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11522)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14024)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12020)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12638)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15002)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11966)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13137)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14564)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20730)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13241)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10970)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20718)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14375)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20401)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17669)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14026)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31864)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12024)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant