Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tăng Chi Bộ Song Ngữ Anh Việt

11 Tháng Ba 201510:50(Xem: 12937)
Kinh Tăng Chi Bộ Song Ngữ Anh Việt
KINH TĂNG CHI BỘ - ANGUTTARA NIKAYA

Nguyen Giac

Kinh Tăng Chi Bộ Song Ngữ Anh Việt


KINH TĂNG CHI BỘ


Trích từ các chương

Một Pháp, Hai Pháp, Ba Pháp và Bốn Pháp
Dịch từ Pali ra Anh ngữ bởi
Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi
Bản dịch Việt ngữ và Ghi chú do
Nguyên Giác


Tâm Chói Sáng

Chư tăng, tâm này chói sáng, nhưng bị nhiễm ô bởi bụi bên ngoài tới.

Người không được chỉ dạy không hiểu việc này như nó thực sự là; cho nên với người không được chỉ dạy, sẽ không có thăng tiến tâm.

Chư tăng, tâm này chói sáng, và tâm này xa lìa các bụi bên ngoài tới bám.

Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.

*
GHI CHÚ 1: Tâm chói sáng này -- được giải thích là bị che phủ bởi bụi tham, sân và si từ ngoài tới – được nhiều Phật Tử Bắc Tông và PG Tây Tạng gọi cụ thể tên là Phật Tánh, tâm thanh tịnh, bản tâm, và tự tánh của tâm. Hầu hết Phật Tử Nam Tông không đồng ý với các tên gọi này.

Lời cảnh giác cần ghi nơi đây. Người ta đã đi lạc nếu nói rằng có một tâm phổ quát, một quan điểm hiện được nhiều tín đồ độc thần dùng để ám chỉ về một Đấng Sáng Tạo sau khi đức tin của họ vào một Thượng Đế nhân cách, nhân từ và quan phòng không phù hợp với khoa học. (Hết GHI CHÚ 1)

*


GHI CHÚ 2
: Chúng ta nên ghi nhớ lời Tâm Kinh, “Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.” (Essence of the Heart Sutra, dịch và bình bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma, trang 60)

Cũng nên ghi nhận rằng Đại sư Thái Lan Ajahn Chah, một nhà sư Nam Tông nổi tiếng, đã nói trong sách “Chìa Khóa Giải Thoát và Đường tới Bình An” với ngôn ngữ y hệt như Thiền:

“Rồi thì, mục đích của tu tập là hướng nội, tìm kiếm và khảo sát cho tới khi quý vị đạt tới bản tâm. Bản tâm cũng được biết như là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnhtâm không dính mắc gì...

... bản tâm vượt ra ngoài thiện và bất thiện. Đây là bản tánh của tâm. Nếu quý vị cảm thấy hạnh phúc khi đối cảnh vui thích, đó là vọng tưởng. Nếu quý vị cảm thấy không hạnh phúc khi đối cảnh không vui thích, đó là vọng tưởng...

Tự tâm thực sự đã là giải thoát rồi, nhưng quý vị phải đau khổ chỉ vì tự mình dính mắc...”

*




Chánh Niệm về Thân

Chư tăng, nếu một pháp được phát triển và tu dưỡng, thân được tĩnh lặng, tâm được tĩnh lặng, vọng niệm được lắng xuống,

và tất cả các thiện pháp tham dự trong tri thức tối thượng tới mức thăng tiến toàn vẹn.

Một pháp đó là gì? Đó là chánh niệm về thân...

Chư tăng, nếu một pháp được phát triển và tu dưỡng, vô minh bị rời bỏ, tri thức tối thượng khởi lên, ảo giác về tự ngã được buông xả, những lôi kéo tàng ẩn vô minh được gỡ bỏ, và các phiền não được buông rời.

Một pháp đó là gì? Đó là chánh niệm về thân...




GHI CHÚ 3:
Chánh niệm về hơi thở là một phần trong thiền chánh niệm về thân, và chánh niệm về thân là một phần trong thiền Tứ Niệm Xứ. (Hết GHI CHÚ 3)



An Chỉ và Tuệ Giác

Chư tăng, có hai pháp nằm trong tri thức tối thượng. Hai pháp nào?

An chỉ và tuệ giác.

Nếu an chỉ được phát triển, sẽ có lợi ích nào? Tâm được tăng thượng. Và lợi ích nào khi có tâm tăng thượng? Tất cả tham được buông xả.

Nếu tuệ giác được phát triển, sẽ có lợi ích nào? Trí tuệ được tăng thượng. Và lợi ích nào khi có trí tuệ tăng thượng? Tất cả vô minh được buông xả.

Một tâm bị tham nhiễm ô sẽ không được giải thoát; và trí tuệ bị vô minh nhiễm ô sẽ không có thể tăng thượng.

Do vậy, chư tăng, khi làm tham biến mất dần đi, mới có tâm giải thoát; và khi làm vô minh biến mất dần đi, mới có trí tuệ dẫn tới giải thoát.

GHI CHÚ 4: Pháp tu an chỉ còn gọi là Thiền Chỉ; pháp tu tuệ giác gọi là Thiền Tuệ. Tại Việt Nam, hai pháp này được thực tập theo thứ tự dị biệt hay hòa hợp nhau trong Thiền Chỉ Quán, qua đó học nhânthể đạt tới sự tĩnh lặng (tịch) và chói sáng (chiếu) của tâm. Hai pháp đều nằm trong Bát Chánh Đạo. (Hết GHI CHÚ 4)



Thế gianNiết bàn

Chư tăng, có ba tướng hữu vi của thế gian. Ba tướng này là gì?

Sự sanh khởi được nhìn ra, sự đoạn diệt được nhìn ra, sự biến dị khi đang tồn trú được nhìn ra. Đó là ba tướng hữu vi của pháp thế gian.

Chư tăng, có ba tướng vô vi của Niết Bàn. Ba tướng này là gì?

Không sanh khởi có thể nhìn ra, không đoạn diệt có thể nhìn ra, không biến dị nào trong khi tồn trú có thể nhìn ra. Đó là ba tướng vô vi của Niết bàn.




GHI CHÚ 5
: Tâm Kinh nói, “Do vậy, Xá Lợi Tử, tất cả các pháp đều là không tướng; tất cả chúng đều vô tự tánh; tất cả các pháp không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thiếu, không dư.” (Sđd, tr.60)

Đức Phật đã nói, “Nhưng, một cách chính xác, bởi vì có một pháp không sinh, không trở thành, không được tạo dựng, không được thiết lập, cho nên sự giải thoát ra khỏi những pháp có sinh (diệt), có trở thành, có được tạo dựng, có được thiết lập mới được nhận ra.” — Ud 8.3

Luyện Tâm

Một vị sư dốc lòng tu tập tăng thượng tâm nên, một cách thỉnh thoảng luân phiên, tác ý ba pháp.

Sư nên thỉnh thoảng luân phiên tác ý giữ tâm an định, thỉnh thoảng luân phiên tác ý tinh cần, thỉnh thoảng luân phiên tác ý buông xả.

Nếu sư nào dốc lòng tu tập tăng thượng tâm mà chỉ duy tác ý vào pháp giữ tâm an định, sẽ có thể rằng tâm vị này sẽ rơi vào trì trệ.

Nếu sư này chỉ duy tác ý tinh cần, sẽ có thể rằng tâm vị này rơi vào bồn chồn trạo cử.

Nếu sư này chỉ duy tác ý vào pháp buông xả, sẽ có thể rằng tâm vị này sẽ không an định đủ để diệt trừ phiền não.

Nhưng nếu, một cách thỉnh thoảng luân phiên, sư này tác ý vào từng pháp trong ba pháp này, tâm vị sư này sẽ nhu nhuyễn, khả luyện, chói sáng, và thuần thục, và sẽ dễ an định để diệt trừ phiền não.

*





Tam Pháp Ấn

Cho dù Như Laixuất hiện trong thế gian này hay không, sẽ vẫn có một sự kiện rằng, một đặc tướng chắc thật và tất yếu, rằng tất cả các hành là vô thường... rằng tất cả các hành đều là khổ... rằng tất cả các pháp đều vô ngã.

Như Lai đã giác ngộ đầy đủ về sự kiện này và đã hiểu biết toàn triệt về nó. Đã giác ngộhiểu biết toàn triệt về nó, Như Lai đã nói về nó, giảng dạy về nó, công bố về nó, trình bày về nó, hiển lộ về nó, phân tích về nó và giải thích về nó:

rằng tất cả các hành là vô thường, rằng tất cả các hành đều là khổ, rằng tất cả các pháp đều là vô ngã.

*


Tu Tập Tới Giác Ngộ

Nếu trong khi đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm và đang thức, mà thấy khởi lên một niệm tình dục, một niệm bất thiện, hay một niệm bạo lực, và vị sư này dung dưỡng niệm này, không rời bỏ niệm này, không xua đuổi niệm này, không xóa và không diệt niệm này,

vị sư đó (người có thái độ như thế là tinh cần thấp kémđạo đức xấu hổ) được gọi là kẻ lười biếng và thiếu năng lực.

Nếu trong khi một vị sư đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm và đang thức, mà thấy khởi lên một niệm tình dục, một niệm bất thiện, hay một niệm bạo lực, và sư này không dung dưỡng niệm này, và sẽ rời bỏ, xua đuổi, xóa và diệt niệm này,

vị sư này (người có thái độ như thế đã bộc lộ tinh cầnđạo đức xấu hổ) được gọi là tinh tấnquyết tâm.



GHI CHÚ 6:
Nơi đây, Đức Phật tập trung vào niệm tâm, pháp thứ ba trong Tứ Niệm Xứ. Đức Phật đã nói trong Kinh Bahiya rằng “khi thấy, chỉ thấy thôi và khi nghe chỉ nghe thôi,” và vân vân; Như thế, chúng ta không dính mắc vào bất kỳ thứ gì. Bắc Tông và PG Tây Tạng nói thêm rằng trong Tứ Niệm Xứ, chúng ta tỉnh thức để trải nghiệm thế giới qua dòng tâm thức, trong đó tâm chói sáng nên được nhận ra – dùng chữ khác, là để thấy tánh của tâm. (Hết GHI CHÚ 6)

*


Cúng Dường Thức Ăn

Suppavasa, người phụ nữ tộc Koliyan, đã diện kiến Đức Phậtcúng dường Ngài nhiều loại thức ăn ngon. Khi Đức Phật thọ trai xong, rời tay khỏi bình bát, Suppavasa ngồi xuống một bên và Đức Phật dạy cho cô rằng:

“Suppavasa, người Thánh nữ đệ tử, khi cúng dường thức ăn cũng đã dâng cúng bốn thứ cho người thọ nhận. Bốn thứ là gì? Cô cũng đã cúng sự trường thọ, vẻ đẹp, hạnh phúc, và sức mạnh.

Cúng sự trường thọ như thế, tự cô sẽ hưởng phước trường thọ, dù ở cõi người hay cõi trời. Cúng vẻ đẹp như thế, tự cô sẽ hưởng phước nhan sắc xinh đẹp, dù ở cõi người hay cõi trời.

Cúng sự hạnh phúc như thế, tự cô sẽ hưởng phước có hạnh phúc, dù ở cõi người hay trời. Cúng sức mạnh như thế, tự cô sẽ hưởng phước có sức mạnh, dù ở cõi người hay trời.

Một Thánh nữ đệ tử khi dâng cúng thức ăn cũng đã dâng cúng bốn thứ tới người thọ nhận."


*

Tôn Kính Cha Mẹ

Chư tăng, nơi nhà nào cha mẹ được các con tôn kính, những gia đình này cũng như cư trú ở cõi Phạm Thiên. Nơi nhà nào cha mẹ được con tôn kính, những gia đình này cũng như cư trú với các đạo sư thời xưa.

*


Bốn Pháp Không Thể Nghĩ Tới Được

Chư tăng, có bốn pháp không thể nghĩ tới, không nên được nghĩ tới; nếu suy nghĩ tới, có thể dẫn tới cuồng loạnđau khổ. Bốn pháp đó là gì?

Chư tăng, cõi giới của một vị Phật là pháp không thể nghĩ tới được, không nên được nghĩ tới; nếu suy nghĩ tới, có thể dẫn tới cuồng loạnđau khổ.

Cõi giới của thiền định... cõi giới của nghiệp quả... những lý thuyết về thế giới này là các pháp không thể nghĩ tới được, không nên được nghĩ tới; nếu suy nghĩ tới, có thể dẫn tới cuồng loạnđau khổ.

*


Đường Tới Quả Vị A La Hán

Như vầy tôi nghe. Có một lần, Đại Sư Ananda đang cư trú ở Kosambi, trong tu viện Ghasita. Nơi đó, Ngài Ananda nói với các sư rằng: “Các hiền giả!” Các sư đáp, “Vâng, thưa hiền giả.”

Đại sư Ananda nói: “Các hiền giả, bất cứ vị sư hay vị ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng họ đã chứng được quả A La Hán, tất cả đều từ một trong bốn cách. Bốn cách nào?

“Các hiền hữu, nơi đây một vị sư tu pháp quán, sau khi tu pháp chỉ. Trong khi như thế, sư tu pháp quán mà trước đó đã tu pháp chỉ, đường đạo khởi lên trong sư này.

Bấy giờ sư theo đó, phát triển, bồi đắp đường đạo này, và trong khi làm như thế, phiền não bị rời bỏ và những lôi kéo tàng ẩn vô minh bị gỡ bỏ.

“Hay là, chư hiền hữu, một vị sư tu pháp chỉ, sau khi tu pháp quán. Trong khi như thế, sư tu pháp chỉ mà trước đó đã tu pháp quán, đường đạo khởi lên trong sư này.

Bấy giờ sư theo đó, phát triển, bồi đắp đường đạo này, và trong khi làm như thế, phiền não bị rời bỏ và những lôi kéo tàng ẩn vô minh bị gỡ bỏ.

“Hay là, chư hiền hữu, một vị sư tu pháp chỉ và pháp quán kết hợp nhau. Trong khi như thế, sư tu pháp chỉ và pháp quán kết hợp nhau, đường đạo khởi lên trong sư này.

Bấy giờ sư theo đó, phát triển, bồi đắp đường đạo này, và trong khi làm như thế, phiền não bị rời bỏ và những lôi kéo tàng ẩn vô minh bị gỡ bỏ.

“Hay là nữa, chư hiền hữu, tâm một vị sư bị nắm lấy bởi sự dao động gây ra bởi các trạng thái tăng thượng tâm.

Nhưng sẽ tới một lúc, khi bên trong tâm của sư này vững lại, tĩnh lặng, nhất tâm, và an định; lúc đó đường đạo khởi lên trong sư này.

Bấy giờ sư theo đó, phát triển, bồi đắp đường đạo này, và trong khi làm như thế, phiền não bị rời bỏ và những lôi kéo tàng ẩn vô minh bị gỡ bỏ.

“Chư hiền hữu, bất cứ sư hay ni nào tuyên bố trước mặt tôn rằng họ đã đạt quả vị A La Hán, tất cả đều từ một trong bốn cách này.”




GHI CHÚ 7:
Có phải cách thứ tư do Ngài Ananda nói chính là Thiền Tông như dạy bởi Ngài Bồ Đề Đạt Ma? Có phải lối vào không cổng là khi một câu hỏi hay một công án nắm giữ lấy tâm học nhân một thời gian dài trước khi đường đạo khởi lên trong tâm (hay khi tâm chói sáng được nhận ra)? Vài tích trong Kinh Pali – như truyện về Trưởng Lão Ni Kundalakesi, hay Bahiya, hay ngay cả Ananda – làm chúng ta nghĩ về các trường hợp đốn ngộ trong Thiền Tông.

Hãy xem một bản dịch khác ở trang Supreme Buddha:

“Rồi có một trường hợp khi tâm một vị sư bị nắm giữ lấy bởi sự dao động về Chánh Pháp. Nhưng tới một lúc, tâm vị này trở nên nội tĩnh, lắng xuống, nhất tâman định; lúc đó, đường đạo khởi lên trong tâm sư này.


Hay một bản dịch khác từ Tích Lan:

“Lại nữa, các hiền hữu, với trường hợp tâm vị sư bị nắm lấy bởi những dao động chơn chánh, sẽ tới một lúc khi nội tâm lắng xuống, an trụ, tới một điểm nhất tâman định, và với vị sư này đường đạo xuất hiện ra.” (Dịch bởi Sister Upalavanna & A.D.Jayasundere -



THAM KHẢO:

Anguttara Nikaya, Bản Anh dịch từ Access to Insight (accesstoinsight.org), Supreme Buddha (buddhagautama.com), Wikipitaka (tipitaka.wikia.com), Mettanet - Lanka (metta.lk);

Kinh Tăng Chi Bộ, dịch từ Anh sang Việt bởi HT Thích Minh Châu;

Tăng Nhất A Hàm, dịch từ Hoa Ngữ sang Việt Ngữ bởi quý HT Thích Đức Thắng & Thích Tuệ Sỹ) -

Băng hình có thể xem ở đây:

http://youtu.be/ZEYYM5rQkpgyoutube_icone_03

ANGUTTARA NIKAYA


Excerpts from Chapters of

the Ones, Twos, Threes and Fours
Translated from Pali into English by
Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi
Vietnamese translation and Notes by
Nguyen Giac

 

Luminous Mind

This mind, O monks, is luminous, but it is defiled by adventitious defilements.

The uninstructed worldling does not understand this as it really is; therefore for him there is no mental development.

This mind, O monks, is luminous, and it is freed from adventitious defilements.

The instructed noble disciple understands this as it really is; therefore for him there is mental development.


NOTE 1: The luminous mind -- which allegedly is covered by incoming dust of lust, hatred and delusion – is given by many followers of Mahayana and Tibetan Buddhism some specific names such as Buddha-Nature, the pure mind, the original mind, and the nature of mind. Most followers of Theravada disagree with those names.

Some cautious words could be noted here. Someone will stray afar if he or she says that there is a universal mind, a viewpoint that is now adapted by many monotheists to imply a Creator after their belief in a personal, loving and caring God is found incompatible with science. (End of NOTE 1)

*

NOTE 2: We should note that The Heart Sutra said, “There is no eye, no ear, no nose, no tongue, no body, and no mind. There is no form, no sound, no smell, no taste, no texture, and no mental objects.” (Essence of the Heart Sutra, translated and commented by Dalai Lama, p. 60)

It also should be noted that the Thai monk Ajahn Chah, a famous Theravadin, said in the book “Key to Liberation and The Path to Peace” with Zen-like words as follows:

“The purpose of the practice, then, is to seek inwardly, searching and investigating until you reach the original mind. The original mind is also known as the pure mind. The pure mind is the mind without attachment...

...the original mind is beyond good and bad. This is the original nature of the mind. If you feel happy over experiencing a pleasant mind-object, that is delusion. If you feel unhappy over experiencing an unpleasant mind-object, that is delusion...

The mind itself is actually free, but you have to suffer because of your attachments...”


Mindfulness Directed to the Body

(1:21)

If one thing, O monks, is developed and cultivated, the body is calmed, the mind is calmed, discursive thoughts are quietened,

and all wholesome states that partake of supreme knowledge reach fullness of development.

What is that one thing? It is mindfulness directed to the body….

If one thing, O monks, is developed and cultivated, ignorance is abandoned, supreme knowledge arises,

delusion of self is given up, the underlying tendencies are eliminated, and the fetters are discarded.

What is that one thing? It is mindfulness directed to the body.

NOTE 3: Mindfulness of breathing is part of mindfulness of body meditation, which in turn is part of the four foundations of mindfulness. (End of NOTE 3)


Tranquillity and Insight

(2:2.10)

Two things, O monks, partake of supreme knowledge. What two? Tranquillity and insight.

If tranquillity is developed, what benefit does it bring? The mind becomes developed. And what is the benefit of a developed mind? All lust is abandoned.

If insight is developed, what benefit does it bring? Wisdom becomes developed. And what is the benefit of developed wisdom? All ignorance is abandoned.

A mind defiled by lust is not freed; and wisdom defiled by ignorance cannot develop.

Thus, monks, through the fading away of lust there is liberation of mind; and through the fading away of ignorance there is liberation by wisdom.


NOTE 4:
The tranquillity method is also known as Samatha meditation;

the insight method, as Vispassana meditation. In Vietnam, those methods are practiced in a varied order or in unison in Thien Chi Quan, whose practitioners would reach the stillness and brightness of mind. Both methods belong to the Noble Eightfold Path. (End of NOTE 4)


The Conditioned and the Unconditioned

(3:47)

There are, O monks, three conditioned marks of the conditioned. What three?

Its origination is discerned, its vanishing is discerned, its change while persisting is discerned. These are the three conditioned marks of the conditioned.

There are, O monks, three unconditioned marks of the Unconditioned.

What three?

No origination is discerned, no vanishing is discerned, no change while persisting is discerned. These are the three unconditioned marks of the Unconditioned.

NOTE 5: The Heart Sutra said, “Therefore, Shariputra, all phenomena are emptiness; they are without defining characteristics; they are not born, they do not cease; they are not defiled, they are not undefiled; they are not deficient, and they are not complete.” (Ibid., p. 60)

Buddha said, “But precisely because there is an unborn — unbecome — unmade — unfabricated, emancipation from the born — become — made — fabricated is discerned." — Ud 8.3

 

The Refinement of the Mind

(3:100.11–15)

A monk devoted to the training in the higher mind should from time to time give attention to three items.

He should from time to time give attention to the item of concentration, from time to time to the item of energetic effort, from time to time to the item of equanimity.

If a monk devoted to the training in the higher mind should give exclusive attention to the item of concentration, it is possible that his mind may fall into indolence.

If he should give exclusive attention to the item of energetic effort, it is possible that his mind may fall into restlessness.

If he should give exclusive attention to the item of equanimity, it is possible that his mind will not be well concentrated for the destruction of the taints.

But if, from time to time, he gives attention to each of these three items, then his mind will be pliant, workable, lucid, and not unwieldy, and it will be well concentrated for the destruction of the taints.


The Three Characteristics of Existence

(3:134)

Whether Tathāgatas arise in the world or not, it still remains a fact, a firm and necessary condition of existence, that all formations are impermanent… that all formations are subject to

suffering… that all things are non-self.

A Tathāgata fully awakens to this fact and penetrates it. Having fully awakened to it and penetrated it, he announces it, teaches it, makes it known, presents it, discloses it, analyses it and explains it:

that all formations are impermanent, that all formations are subject to suffering, that all things are non-self.

*

Training for Enlightenment

(4:11)

If while walking, standing, sitting or reclining when awake, a sensual thought, a thought of ill will, or a violent thought arises in a monk, and he tolerates it, does not abandon it, dispel it, eliminate it and abolish it,

that monk—who in such a manner is ever and again lacking in earnest endeavour and moral shame —is called indolent and devoid of energy.

If while a monk is walking, standing, sitting or reclining while awake, a sensual thought, a thought of ill will, or a violent thought arises in him, and he does not tolerate it but abandons it, dispels it, eliminates it and abolishes it,

that monk—who in such a manner ever and again shows earnest endeavour and moral shame—is called energetic and resolute.


NOTE 6: Here, Buddha focused on mindfulness of mind, which is the third of the four foundations of mindfulness. Buddha said in Bahiya Sutta that “when seeing, just see and when hearing, just hear,” and so on; Thus, we will cling to nothing whatsoever. The Mahayana and Tibetan Buddhism say further that in the four foundations of mindfulness, we stay mindful to experience things with the stream of mind, from which the luminous mind should be discerned -- in other words, to see the nature of mind. (End of NOTE 6)


The Gift of Food

(4:57)

Suppavāsā the Koliyan lady attended to the Blessed One personally and served him with various kinds of delicious food. When the Blessed One had finished his meal and had withdrawn his hand from the bowl, Suppavāsā the Koliyan lady sat down to one side and the Blessed One addressed her as follows:

“Suppavāsā, a noble woman-disciple, by giving food, gives four things to those who receive it. What four? She gives long life, beauty, happiness, and strength.

By giving long life, she herself will be endowed with long life, human or divine. By giving beauty, she herself will be endowed with beauty, human or divine.

By giving happiness, she herself will be endowed with happiness, human or divine. By giving strength, she herself will be endowed with strength, human or divine.

A noble woman-disciple, by giving food, gives those four things to those who receive it.”

*

Respect for Parents

Those families, O monks, dwell with Brahmā where at home the parents are respected by their children. Those families dwell with the ancient teachers where at home the parents are respected by their children.

*



The Four Unthinkables

(4:77)

Monks, there are these four unthinkables, not to be pondered upon; which if pondered upon, would lead one to insanity and distress. What are the four?

The range of a Buddha, O monk, is an unthinkable, not to be pondered upon; which, if pondered upon, would lead one to insanity and distress.

The range of the meditative absorptions… the results of Kamma… speculations about the world are unthinkables, not to be pondered upon, which if pondered upon, would lead to insanity and distress.

*

Ways to Arahantship

(4:170)

Thus have I heard. On one occasion the Venerable Ānanda was dwelling at Kosambī in Ghosita’s monastery. There the Venerable Ānanda addressed the monks thus: “Friends!” “Yes, friend,” the monks replied.

Thereupon the Venerable Ānanda said: “Friends, whatever monks or nuns declare before me that they have attained the final knowledge of arahatship, all these do so in one of four ways. What four?

“Here, friends, a monk develops insight preceded by tranquillity. While he thus develops insight preceded by tranquillity, the path arises in him.

He now pursues, develops, and cultivates that path, and while he is doing so the fetters are abandoned and the underlying tendencies eliminated.

“Or again, friends, a monk develops tranquillity preceded by insight. While he thus develops tranquillity preceded by insight, the path arises in him.

He now pursues, develops, and cultivates that path, and while he is doing so the fetters are abandoned and the underlying tendencies eliminated.

“Or again, friends, a monk develops tranquillity and insight joined in pairs. While he thus develops tranquillity and insight joined in pairs, the path arises in him.

He now pursues, develops, and cultivates that path, and while he is doing so the fetters are abandoned and the underlying tendencies eliminated.

“Or again, friends, a monk’s mind is seized by agitation caused by higher states of mind.

But there comes a time when his mind becomes internally steadied, composed, unified and concentrated; then the path arises in him.

He now pursues, develops, and cultivates that path, and while he is doing so the fetters are abandoned and the underlying tendencies eliminated.

“Friends, whatever monks or nuns declare before me that they have attained the final knowledge of arahatship, all these do so in one of these four ways.”



NOTE 7:
Is the fourth way as said by Ananda the way of Zen as taught by Bodhidharma? Is that the gateless gate when a question or a koan seizes a pratitioner’s mind for a long time before the path suddenly arises in him (or when the luminous mind is discerned)? Some stories in Pali Canon -- such as the story of Theri Kundalakesi, or Bahiya, or even Ananda – make us think of the stories of sudden enlightenment in Zen.

Let’s see another translation version in Supreme Buddha:

“Then there is the case where a bhikkhu’s mind is seized by agitation concerning the Dhamma (dhammuddhaccaviggahitam manasam). But there comes a time when his mind becomes internally steadied, settles down, and becomes unified and concentrated (samadhiyati); then the path arises in him.


Or another translation from Sri Lanka:

“Again, friends, bhikkhus, with the bhikkhu's mind seized by rightful agitation there comes a time when the mind settles internally, lies and comes to a single point and concentrates, and to him the path appears.”


REFERENCE:

Anguttara Nikaya, English versions from Access to Insight (accesstoinsight.org), Supreme Buddha (buddhagautama.com), Wikipitaka (tipitaka.wikia.com), Mettanet - Lanka (metta.lk);

Kinh Tăng Chi Bộ, translated from Pali into Vietnamese by Thích Minh Chau; Tăng Nhất A Hàm, translated from Chinese into Vietnamese by Thich Duc Thang & Thich Tue Sy.

The video can be watched here:

http://youtu.be/ZEYYM5rQkpgyoutube_icone_03

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12072)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10772)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17992)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9957)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10179)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12356)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15352)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11249)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14336)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12115)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12093)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10622)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12563)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14848)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12697)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16583)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19675)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12273)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14526)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12622)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13631)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11172)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9086)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12184)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13058)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15322)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12226)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11490)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19711)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12504)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant