Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8809)
16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm A Tu la Vương Thọ Ký
Thứ Ba


 Bấy giờ đức Thế Tôn hiện thoại tướng. Do thoại tướng ấy nên A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa nghĩ rằng : Nay tôi cúng dường Phật trước nhứt.

 A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa cùng đồ chúng sáu mươi na do tha, quyến thuộc, phụ nữ cũng sáu mươi na do tha, đồng đem bửu châu vô giá và các vật quí trong biển dâng cúng đức Phật.

 A Tu La Vương ấy hóa làm sáu mươi na do tha xe thất bửu. Các bửu xa ấy lại hóa làm sáu mươi na do tha ngựa điều thuận, trên ngựa lại hóa lưới linh thất bửu để trang sức, chưn ngựa đeo linh xuyến bằng chơn kim, bờm và đuôi ngựa đều bao kết bằng thất bửu, dây cương bằng chơn kim, trên xe báu đều trang nghiêm với thất bửu, càng lọng đều bằng thất bửu. Các lọng thất bửu ấy ở trên hư không bay theo xe, dây linh treo trong lọng cũng bằng thất bửu, có lưới thất bửu giăng trùm lên trên lọng. Gió nhẹ thổi động xe ngựa và lọng thất bửu ấy phát ra tiếng vang vi diệu như trăm thứ nhạc do nhạc công giỏi đồng hòa tấu khiến ngưòi nghe vui vẻ, đoạt thị thính người, đoạt tâm ý người.

 Các xe ngựa thất bửu ấy ở trên không cách mặt đất sáu mươi do tuần, sau xe tấu âm nhạc, trên xe đều có A Tu La nữ trang sức rất đẹp. Các A Tu La nữ ấy, hoặc đứng vũ, hoặc ngồi vũ, hoặc xướng ca, hoặc thân động chuyển, hoặc rắc hương bột, hoặc rưới nước thơm, hoặc mưa các thứ hương mưa các thứ hoa mưa mạt vàng, hoặc rải hoa vàng hoa bạc hoa lưu ly hoa pha lê hoa xích chơn châu hoa mã não hoa xa cừ, hoặc cầm thất bửu rải, hoặc rải trang sức, tất cả đều để cúng dường đức Thế Tôn. Hoặc có A Tu La nữ rung động linh xuyến cho reo thành tiếng, hoặc đội vòng hoa thất bửu trang nghiêm với chơn kim, hoặc đội vòng hoa chơn kim trang nghiêm với thất bửu, hoặc cầm lưới chơn kim, hoặc cầm phan thất bửu,hoặc cầm lọng thất bửu, hoặc cầm tràng thất bửu, đều để cúng dường đức Thế Tôn.

 Lại có các A Tu la nữ chắp tay nói kệ tán thán rằng :

 Quy mạng Trượng Phu Điều Ngự Sư
 Quy mạng đấng Trượng Phu Tối Thắng
 Quy mạng Trượng Phu Lưỡng Túc Tôn
 Quy mạng Trượng Phu không ai sánh
 Quy mạng đấng soi sáng thế gian
 Quy mạng biển trí lớn tối thượng
 Quy mạng rừng đầy đủ công đức
 Quy mạng núi tối thắng vi diệu
 Quy mạng khối đầy đủ công đức
 Quy mạng người dứt sạch phiền não
 Quy mạng thầy tu các tịnh hạnh
 Quy mạng tịnh hạnh không đoạn tuyệt
 Quy mạng vô y không khiếp nhược
 Quy mạng không lười không tán điệu
 Quy mạng quyết định phát tinh tấn
 Quy mạng đấng quyết định đầy đủ.

 A Tu La Vương lại hóa làm sáu mươi na do tha màn trướng thất bửu vi diệu rất lạ nhiều màu trang nghiêm. Dưới mỗi màn trướng báu bay lững lờ ấy lại hóa sáu mươi na do tha đại địa thất bửu. Trên đại địa ấy đều hóa sáu mươi na do tha tường thành thất bửu. Trong mỗi tường thành hóa sáu mươi na do tha lâu đài cung điện thất bửu. Mỗi điện đường có sáu mươi na do tha cửa lớn cửa sổ thất bửu xen lẫn trang nghiêm. Trong mỗi điện đường có sáu mươi na do tha tòa sư tử thất bửu trải bửu y. Hai đầu sư tử tọa để gối đỏ, trước tọa có chiếc kỷ thất bửu trên để sáu ức bửu y của A Tu La Vương. Trên mỗi tòa sư tử đều có hai A Tu La nữ trang sức thất bửu đều cầm lá cây đa la thất bửu làm quạt hầu hai bên một hóa A Tu La tử ngồi trên ấy. Các điện đường ấy đều có sáu mươi na do tha tràng lọng thất bửu.
 Các màn trướng và điện đường thất bửu ấy ở trên không bay nhiễu bên hữu đức Phật ba vòng, rải các thứ hương, mưa các thứ hoa cúng dường đức Phật.
 Lúc ấy ngoài bốn cửa thành Ca Tỳ La đều rộng sáu mươi do tuần, do sức oai thần của A Tu La Vương phóng ánh sáng chiếu khắp sáu mươi do tuần, chiếu lên sáu vạn do tuần chu vi đầy khắp những đồ cúng dường. Các màn trướng lững lờ bay nhiễu quanh Phật rồi dừng lại.

 Lúc ấy trong thành Ca Tỳ La chứa hoa trời mạn đà la cao bảy trượng, nước thiên hương thành bùn. Do thần lực của Phật làm cho hơi thơm ấy khắp tam thiên Đại Thiên Đại thừa nghe hơi thơm ấy, người mới phát Bồ đề tâm cũng còn được bất thối chuyển huống là người đã tu lâu.

 A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dùng bột hương chiên đàn cõi trời rải lên trên đức Phật mà nói kệ rằng:

 "Nay tôi quy y Bà Già Bà
 Đấng ban Trời Người đức vô úy
 Quy y đấng tối thắng bất động
 Hi vọng vô thượng đại Bồ đề
 Nay tôi quy y Bà Già Bà
 Lòng mừng chẳng đọa ba ác đạo
 Thế nên nay tôi quy y Phật
 Mong cầu vô thượng đại Bồ đề
 Nay tôi quy y Bà Già Bà
 Đấng trừ sanh tử biển khổ lớn
 
 Hay dứt đồng hoang lìa phiền não
 Bực thầy hay dẫn đạo chúng sanh
 Nay tôi quy y Bà Già Bà
 Quy y Phật rồi chẳng cầu sanh
 Biển rất khổ bị già chết bức
 Thế Tôn là thầy của Trời Người".
 Nói kệ tán thán Phật rồi A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng.
 Các ngựa báu anh lạc trang nghiêm, các xe báu, các A Tu La, các A Tu La nữ, các tràng phan lọng báu linh lưới thất bửu bị gió thổi động vang ra tiếng vi diệu vui lòng đẹp dạ như cả trăm thứ nhạc hòa tấu rất hay.
 A Tu La Vương lại nhiễu Phật ba vòng, mưa hương bột chiên đàn cõi trời, hương bột ưu bát la, hương bột trầm thủy, hương bột đa ma la, các thứ hương bột a tu la từ trên không rơi xuống. Lại mưa các hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ba lô sa ca, ma ha ba lô sa ca, ca ca la bà, ma ha ca sa la bà, ba tra lê, ma ha ba tra lê, chất đa la ba ra trê, ma ha chất đa la ba tra lê. Lại có các thứ hoa biến hóa, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu ly, hoa pha lê, hoa xích chơn châu, hoa xa cừ, hoa mã não từ trên không mưa xuống.
 Lại mưa nước thơm cõi trời, nước thơm A Tu La. Do vì nước thơm ấy nên thành Ca Tỳ La trong ngoài sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm, hơi thơm ấy khắp tam thiên Đại Thiên thế giới. Bồ Tát được nghe hơi thơm ấy được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
 A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng, do thần lực đức Phật ở trong hư không trỗi âm nhạc trời và âm nhạc A Tu La. Các âm nhạc ấy do thần lực Phật nên vang khắp tam thiên Đại Thiên thế giới. Người tu Đại thừa nghe tiếng âm nhạc ấy được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
 Vô lượng trăm ngàn A Tu La nữ, hoặc ca, hoặc vũ, hoặc tấu nhạc, hoặc thân chuyển động.
 Các A Tu La nữ lại rải các thứ hương bột, cõi trời và các thứ hoa trời, hoa biến hóa, hoa thất bửu để cúng dường đức Phật. Lại rải những y phục báu và những đồ trang sức thất bửu, các thứ hương bột, các thứ chơn châu để cúng dường Phật.
 
 A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa cùng các quyến thuộc đồng thanh nói kệ rằng:
 "Tâm tôi thường như vậy
 Gặp gỡ Phật Thế Tôn
 Vì qui y Như Lai
 Vị lai thường cúng dường".
 A Tu La Vương Ba La Đà bố thí cúng dường Phật cũng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rồi nói kệ rằng:
 "Tôi lạy đấng được thiệt thập lực
 Cũng lạy đấng vô úy tự tại
 Quyết định được những pháp bất cộng
 Quy mạng Đạo Sư các thế gian
 Tôi lạy đấng dứt trừ kiết sử
 Cũng lạy xuất ly đường sanh tử
 Đạo Sư dẫn dắt chúng sanh nghèo
 Tôi lạy trí sâu chẳng nghĩ bàn
 Cùng chúng hòa hiệp chẳng lay động
 Ở trong các loài tâm giải thoát
 Như hoa sen kia chẳng dính nước
 Thế Tôn vốn tu các pháp không
 
 Rời lìa lựa chọn được vô tướng
 Nơi tất cả chỗ không nguyện cầu
 Tôi lạy như không không chỗ nương".
 A Tu La Vương Thiện Tý trần thiết cúng dường quảng đại vô lượng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những lúa vàng chơn kim và nói kệ tán thán:
 "Đấng Đại Mâu Ni không ai sánh
 Trên trời dưới trời cũng vô tỉ
 Phật biết chúng sanh như dương diệm
 Chẳng phải thiệt chỉ là ý tưởng
 Nơi đây không người làm người thọ
 Cũng không sĩ phu không vô ngã
 Rời lìa tạo tác không thể tánh
 Tuyên nói tất cả pháp tịch địch
 Tin hiểu được nơi pháp Như Lai
 Quán tất cả pháp đều bình đẳng
 Người ấy sẽ được làm Phật tử
 Thuận lời Phật dạy như cha mẹ
 Nay tôi khen ngợi phước đã được
 Tôi đem phước đức của tôi có
 Hồi thí chúng sanh đều làm Phật".
 
 A Tu La Vương Bạt Trì Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dùng hoa chất da la ba tra lê rải cúng dường Phật rồi nói kệ tán thán rằng:
 "Đại Tiên Như Lai thân thần diệu
 Vượt hơn tất cả các Trời Người
 Đã như Tu Di so hột cải
 Lại giống biển lớn sánh dấu trâu
 Nhan dung Như Lai rất đoan chánh
 Nhiều tướng trang nghiêm tối đệ nhứt
 Vượt hơn tất cả các màu sắc
 Như mặt nhựt mọc lửa đóm lu
 Thế Tôn khối vô lượng oai đức
 Khiến các oai đức chẳng hiện được
 Như mặt nhựt mọc sáng đóm mờ
 Đại Thánh Thế Tôn biển trí lớn
 Vượt hơn trùm khắp cả ba cõi
 Che các ngoại đạo khiến chẳng hiện
 Như mặt trời sáng khuất ánh trăng".
 

 A Tu La Vương Diệm Bà Lợi trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng, dùng hoa ma ha ba tra lê rải cúng Phật rồi nói kệ tán thán rằng:
 "Bực trí huệ thích xa ma tha
 Trừ được ba độc tham sân si
 Dẫn dắt chúng sanh xuất thế gian
 Như mưa rào tắt lửa lắng bụi
 Thế Tôn hừng hực mắt chánh pháp
 Cũng như dầu tô tưới lửa hừng
 Hay dứt phiền não lưới nghi hết
 Cũng như lửa đốt đồng hoang lớn
 Nhan dung đoan chánh rất vi diệu
 Các tướng trang nghiêm tối đệ nhất
 Vượt hơn tất cả các diệu sắc
 Như mặt nhựt mọc sáng đóm mờ
 Như Lai nắm cầm các thiện căn
 Vô lượng ức vạn na do tha
 Hay trừ phiền nãonghiệp ác
 Như ăn cam lộ trừ thân độc
 Thổi trừ tất cả tối vô minh
 Như đêm đuốc sáng soi hắc ám
 
 Như Lai thị hiện mắt chánh pháp
 Dường như thợ ngọc rõ giá ngọc".
 A Tu La Vương Lạc Chiến trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những hoa báu nói kệ tán thán rằng:
 "Ác tâm khó điều Phật điều được
 Như dũng sĩ mạnh hàng giặc dữ
 Khéo được nhu nhuyến tâm tự tại
 Tôi lạy đấng vô úy tâm điều
 Ủiều được các căn lìa oán thù
 Rời úy vô úy được an ổn
 Thế Tôn phiền não chẳng còn phát
 Trừ dứt độc hại đều không thừa
 Sức na la diên khéo tu từ
 Ở trong yêu ghét lòng bình đẳng
 Như Lai biết ý tưởng chúng sanh
 Chẳng bị sáu đường nắm giữ được
 Rời lìa tâm tưởng hết tham ái
 Phóng sáng trí huệ phá tối tăm
 Ở trong các pháp lòng chẳng chấp
 Thế Tôn siêu quá không ai sánh".
 
 A Tu La Vương Thiện Nhựt trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dâng các bửu tạng lên Phật nói kệ tán thán rằng:

 "Đại Hùng biết từ lâu
 Thiệt tướng của các pháp
 Đó là tên các pháp
 Đều riêng hòa hiệp giả
 Thể của tất cả pháp
 Các cách cầu chẳng được
 Nói rằng là pháp nầy
 Nói đều là giả danh
 Lìa danh gọi thể tánh
 Các tướng cũng như vậy
 Không tướng cũng không danh
 Đã lìa ba thứ pháp
 Nói rằng là giải thoát
 Thiệt thì không chỉ được
 Người nói nói cũng không
 Người hiểu cũng là không
 Biết các pháp như vậy
 Đấng Mâu Ni vô thượng
 Chẳng chấp nơi các pháp
 Tu hành danh xưng lớn".
 
 A Tu La Vương Phục Tam Giới trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dâng chơn châu anh lạc lên Phật nói kệ tán thán rằng:

 "Nay tôi khen Phật lìa oán địch
 Dung nhan đoan chánh sức giới trí
 Tất cả thế gian không như Phật
 Dùng thân vô tỉ phục thù địch
 Sắc lực quang minh chiếu ba cõi
 Tu các nghiệp lành được tướng tốt
 Tám mươi tùy hảo đều nghiêm tịnh
 Sức trì tịnh giới không bị động
 Người trí suy lường chẳng biết được
 Vì Phật trì giới tâm thanh tịnh
 Nên được thành đấng Phật Thế Tôn
 Trí lực của Phật không còn sánh
 Vì không bố úy hơn ba cõi
 Như vua sư tử rống giữa rừng
 Vượt hơn tất cả các ngoại đạo".
 

 A Tu La Vương Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm các báu rải trên Phật mà tán thán rằng:
 "Đại chúng đều họp chỗ Mâu Ni
 Tịnh tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
 Tất cả hiện tiền thấy Thế Tôn
 Đây là tướng bất cộng của Phật
 Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
 Mọi loài tùy tâm đều được hiểu
 Phật thuyết pháp đúng cơ chúng sanh
 Đây là tướng bất cộng của Phật
 Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
 Chúng sanh tùy loài đều được hiểu
 Xứng ý mong muốn biết rõ nghĩa
 Đây là tướng bất cộng của Phật
 Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
 Hoặc có tu tấn hoặc điều phục
 Hoặc có chứng được quả vô học
 Đây là tướng bất cộng của Phật".
 A Tu La Vương Mục Chơn Lân Đà trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm xích chơn châu rải lên Phật nói kệ tán thán rằng:
 "Tâm tịnh vui mừng kính tin Phật
 Rời lìa ngạo mạn không tà kiến
 Thuận Phật A Hàm chẳng phóng dật
 Đây là bực tu hành vô tỷ
 Các pháp tự tánh bất khả khả đắc
 Như mộng hành dục thảy đều hư
 Chỉ theo ý tưởng chẳng thiệt có
 Thế Tôn biết pháp cũng như vậy
 Như mây mùa thu trăng trong nước
 Mê hoặc chúng sanh ngu vô trí
 Chẳng mê hoặc được người mắt sáng
 Tinh tấn rất ưa Phật chánh pháp
 Người diệu rất diệu chẳng sai lầm
 Ở trong Phật pháp chẳng phóng dật
 Phân biệt các pháp đều như mộng
 Được thấy như thiệt diệu tam muội".
 Bấy giờ các A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa v.v... có sáu mươi na do tha A Tu La trần thiết cúng dường rồi, thảy đều chắp tay làm lễ đứng yên, mừng vui hớn hở tình ý tràn đầy vui mừng vừa lòng, tâm nguyện Bồ Đề nối tiếp chẳng tuyệt.
 Đức Thế Tôn biết các A Tu La tín tâm cúng dường rồi, theo pháp chư Phật mà thị hiện tướng mỉm cười. Từ diện môn của Phật phóng ra vô lượng tia sáng màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng tía pha lê vàng bạc và màu lẫn lộn. Từ miệng phóng ra rồi, các tia sáng màu ấy nhiễu Phật ba vòng trở về nhập vào đảnh Phật.
 Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay làm lễ rồi nói kệ hỏi Phật rằng:
 "Hùng mãnh Mâu Ni hiện thoại tướng
 Thương thế gian chẳng phải không nhơn
 Thế Tôn tối thắng xin nói cho
 Nhơn duyênĐại Tiên hiện tướng
 Thương xót chúng sanh hiện thoại ứng
 Thấy các Tu la cúng dường lớn
 Muốn thọ ký cho A Tu La
 Khiến đại chúng tôi được vui vẻ
 Nay có thắng tâm tin chẳng nghi
 Trong chúng đây có người phát tâm
 
 Thế Tôn biết tín căn họ rồi
 Thiền Nhơn Đạo Sư hiện tướng ấy
 Ngày nay ai phát tâm thanh tịnh
 Trong đại chúng ai sanh thắng tín
 Thế Tôn biết tín căn họ rồi
 Hiện thoại tướng mỉm cười tối diệu
 Nay đại chúng đây muốn biết rõ
 Đều thấy Như Lai hiện mỉm cười
 Hôm nay ai lại hàng ma oán
 Phật hiện mỉm cười vì người ấy
 Lành thay Đại Tiên hàng ma oán
 Mong dứt lòng nghi của đại chúng
 Nguyện Phật nói mau chớ chần chờ
 Cho đại chúng đây được biết rõ".
 Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:
 "Lành thay nghĩa hỏi của Tỳ Kheo
 Phật hiện thoại tướng lợi thế gian
 Phật nói quả báo không có thừa
 Nay ông nhứt tâm khéo lắng nghe
 Các A Tu La cúng dường Phật
 Để cầu Vô thượng thắng Bồ Đề
 Tâm ý Tu La không chỗ nương
 
 Như tay tại hư không chẳng chướng
 Tu La cúng dường Thế Tôn rồi
 Tâm ý chúng ấy đều thanh tịnh
 Đại trí đều bỏ đạo Tu La
 Với Trời Người từ lâu đã thích
 Chúng ấy ở đời vị lai sau
 Gặp gỡ hằng sa đại Đạo Sư
 Ở kiếp Thiện Danh được thành Phật
 Chư Phật ấy đồng hiệu Thiện Danh
 Số đúng sáu mươi na do tha
 Danh chấn mười phương soi thế gian
 Diễn nói pháp vô y vô trước
 Hay rộng độ thoát chúng Nhơn Thiên
 Các Phật độ ấy rất nghiêm tịnh
 Phật biết thế gian rời ngũ trược
 Tịnh Phật quốc độ ba ngàn cõi
 Số đúng sáu mươi na do tha
 Nước kia chẳng có ba ác đạo
 Do lòng mừng vui đất ruộng sạch
 Phật kia hùng mãnh Vô thượng Đại thừa
 Chư Như Lai kia được thọ mạng
 Ở đời sáu mươi do tha kiếp
 Diễn nói pháp không nơi y chỉ
 Mỗi mỗi Như Lai đều cũng vậy
 Sau khi Như Lai kia diệt độ
 Thế gian người trí đều cũng diệt
 Đủ số sáu mươi do tha kiếp
 Chánh pháp Phật ấy còn tại thế
 Chư Như Lai ấy đều riêng độ
 Số chúng sanh đông như hằng sa
 Chư Như Lai ấy số vô lượng
 Cõi thọ chánh pháp trụ cũng vậy
 Chư Như Lai kia hay thành thục
 Sáu mươi do tha số chúng sanh
 Đều khiến an trụ trong Đại thừa
 Thảy đều nối tiếp giống Tam bảo
 Hôm nay thọ ký cho Tu La
 Đấng Đại Tiên độ đời tuyên nói
 Trời Người nghe thọ ký nầy rồi
 Thâm tâm hớn hở được tịnh tín"
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29904)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27183)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21774)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20057)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18997)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24000)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21334)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19994)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23183)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22933)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29593)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18718)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18867)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19962)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22958)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34190)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16429)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16929)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20110)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24075)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22907)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30971)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21017)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26271)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19826)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24693)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30051)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20233)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20416)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15151)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15843)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23916)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant