KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các
giới khinh)
B.2.2.1. BẤT KÍNH SƯ HỮU GIỚI
(giới không kính
thầy - bạn)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “nhược
Phật tử nhược thọ quốc vương vị thời...” cho đến câu “nhược bất nhĩ giả, phạm
khinh cấu tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Nếu Phật tử lúc
sắp lãnh ngôi quốc vương, ngôi Chuyển Luân Vương, hay sắp lãnh chức quan, trước
nên thọ giới Bồ Tát. Như thế tất cả quỷ thần sẽ cứu hộ thân vua và thân các
quan. Chư Phật cũng đồng hoan hỷ.
Khi đã đắc giới
rồi, Phật tử nên có lòng cung kính. Nếu thấy có bực thượng tọa, hòa thượng, a
xà lê, những bậc đại đức đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng lên
tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như pháp dạy mà cúng dường, hoặc
tự bản thân cho đến quốc thành, con cái, cùng bảy thứ báu, trăm vật để cung cấp
cho các bậc ấy. Nếu Phật tử lại sanh lòng kiêu mạn, sân hận, ngu si, không chịu
tiếp rước, lạy chào. Cho đến không chịu y theo pháp mà cúng dường. Phật tử này phạm
khinh cấu tội.
Lời giảng:
Đương thời, Đức
Phật ở trước đại chúng dạy như vầy: Nếu làm một vị Phật tử trong hàng học Phật
tại gia, trong lúc sắp lãnh ngôi quốc vương, hoặc giả lúc lãnh ngôi Chuyển Luân
Vương, hoặc là bá quan văn võ, lúc thọ lãnh chức vụ, việc duy nhất và tối yếu
là trước nhất nên thọ giới Bồ Tát.
Quốc Vương
là vị thủ trưởng hành chánh tối cao, có quyền thống lãnh nhân dân như các chức
vị Tổng Thống, Chủ Tịch, Quốc Trưởng... trong các quốc gia hiện nay.
Chuyển
Luân Vương là vị thánh vương, ngự trên kim luân, đi giáo hóa chúng sanh (Kim
Luân là chiếc xe của Chuyển Luân Vương bằng vàng ròng). Chuyển Luân Vương có
bốn loại:
1. Kim Luân
Vương: có oai đức chấn động 4 châu.
2. Ngân Luân
Vương: có oai đức chấn động 3 châu.
3. Đồng Luân
Vương: có oai đức chấn động 2 châu.
4. Luân Vương:
có oai đức chấn động 1 châu.
“Bá quan” là
toàn thể các quan văn võ, cấp bậc lớn nhỏ không đồng, giúp vị nguyên thủ quốc
gia giáo hóa thống nhiếp nhân dân, như bộ trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng... hiện
nay.
Các vị Quốc Vương,
Chuyển Luân Vương... có bổn phận trực tiếp giáo hóa cai trị nhân dân, có quan
hệ mật thiết với nhân dân. Nếu các vị ấy là bậc hiền minh, biết thương dân yêu
nước, xem dân chúng như con mình, ở đâu cũng vì nhân dân, nghĩ suy phương cách
làm cho nhân dân được yên vui, lúc nào cũng mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, thì
nhân dân sẽ được lợi ích rất lớn.
Ngược lại, nếu
các vị ấy là người cường bạo, xem nhân dân như kẻ thù, coi trăm họ như rơm rác,
cỏ cây, lúc nào cũng chuyên bóc lột nhân dân, ở đâu cũng hà hiếp dân chúng, làm
cho họ bị điêu đứng, lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng thì dân chúng sẽ bất lợi
muôn phần.
Do đó, vào thời
quân chủ, người dân luôn khao khát có được những bậc thánh quân, hiền thần xuất
hiện. Nhưng muốn làm một vị thánh quân hay hiền thần, điều kiện tối yếu là hành
vi của bản thân mình cần phải hết sức kiện toàn.
Vì thế trước nên
thọ giới Bồ Tát để được thấm nhuần giới hạnh. Nhờ đó sẽ thương yêu giúp đỡ nhân
dân, sẽ trở thành một vị lãnh tụ muôn dân đều kính mến ủng hộ. Quốc gia nhờ đó
được cảm ứng điềm lành như phong điều vũ thuận, nhân dân được an cư lạc nghiệp.
Từ vua quan đến nhân dân đều sống trong không khí thái hòa thạnh trị.
Quốc vương, đại
thần khi đã thọ giới Bồ Tát, nhờ nơi sức oai đức của tịnh giới, phước đức sẽ
cảm hóa được tất cả quỷ thần, cho nên mới được chư thiện thần hộ pháp đến cứu
hộ thân vua, giúp cho thân tâm quốc vương được vui vẻ, khang kiện, vĩnh viễn hộ
trì địa vị tôn quý của quốc vương, tránh khỏi họa xâm lăng của nước ngoài. Đồng
thời thân của bá quan cũng được sự hộ vệ của hộ pháp thiện thần, chẳng những
thân thể của họ được khang kiện, tinh thần được thư thái an lạc, lại được tăng
gia quan chức, mọi việc đều thuận lợi.
Trong kinh nói
người Phật tử thọ trì năm giới sẽ được sự ủng hộ của hai mươi lăm vị thiện thần,
tức là mỗi giới sẽ có năm vị thiện thần ủng hộ. Thọ trì ngũ giới còn được như
vậy, huống chi thọ giới Bồ Tát, dĩ nhiên được sự ủng hộ của chư Bồ Tát thiện
thần.
Giới Bồ Tát là
bổn nguyên của chư Phật, các ngài luôn mong muốn mọi người đều bẩm thọ giới
này. Hiện tại quốc vương, đại thần đã phát tâm Bồ Đề, phát nguyện thọ giới này,
khiến cho Quang Minh Kim Cương Bửu Giới được miên viễn không đoạn tuyệt. Thế
nên chư Phật tự nhiên sanh tâm đại hoan hỷ, vì hiện tại phước đức tăng trưởng,
tương lai diệu quả được chắc chắn thành tựu.
Bồ Tát giới gồm
cả hai chúng xuất gia và tại gia, luôn cả những người có đủ tư cách thọ Bồ Tát
giới. Nhưng tại sao ở đây chỉ đề cập đến các vị quốc vương, chuyển luân vương
và bá quan?
- Chúng xuất gia
đối với sư trưởng, huynh đệ, rất ít khi sanh tâm kiêu mạn, bất kính, nên ở đây
không đề cập đến hàng Bồ Tát xuất gia.
- Bồ Tát tại gia
thì rất dễ sanh tâm kiêu mạn, nhất là những người có địa vị cao quý đặc biệt
như quốc vương, đại thần v.v... đều tự cho mình là cao tột, mọi người đều phải
cung kính, tôn trọng và họ không có ý nguyện tự thân phải cung kính tôn trọng
mọi người. Vì lẽ ấy, Phật đặc biệt dạy hàng quốc vương, đại thần phải thọ giới
Bồ Tát đầu tiên.
- Hàng thứ dân,
thông thường họ đều bắt chước những việc làm của người bề trên như quốc vương,
đại thần, bá quan... Nếu người bề trên thực hành, dân chúng tự nhiên sẽ tùy
thuận thực hành theo. Vì thế nên nơi đây cũng chẳng những không đề cập chúng
Phật tử tại gia, mà luôn cả những hạng bình dân đều không nói đến. Vì nhân dân
đã được hàm nhiếp trong ảnh hưởng của quốc vương và bá quan.
Khi đã thọ giới
rồi, người thọ giới đương nhiên là “đắc giới thể”. Như thọ Ngũ Giới thì đắc
giới thể của Ngũ Giới. Thọ Thập Giới thì đắc giới thể của Thập Giới. Hiện tại
thọ Bồ Tát giới thì đắc giới thể của Bồ Tát giới.
Như đã nói trước
đây, khi đắc giới sẽ được chư thiện thần, hộ pháp hộ vệ và chư Phật hoan hỷ. Do
đâu mà được sự lợi ích ấy? Không phải do sự khuyên răn, dạy bảo của thầy, bạn
mà được hay sao?
Nếu không có sự
khuyên răn, dạy dỗ của thầy, bạn thì làm sao được giới và đắc giới thể. Cũng
như làm sao được sự lợi ích thù thắng như trên? Cứ triển chuyển suy luận thì có
thể nói tất cả lợi ích thù thắng hoàn toàn do nơi thầy, bạn ban cho mình.
Thầy bạn đã ban
cho chúng ta sự lợi ích vĩ đại như thế, chúng ta cần phải biết ơn đức và đền
trả ân đức. Đối với thầy, bạn phải sanh tâm hiếu thuận và cung kính.
Cha mẹ sanh
thành, dưỡng dục xác thân của chúng ta. Chúng ta cần phải hiếu thuận với song
thân. Đây là sự thật mọi người đều biết.
Sư trưởng truyền
trao giới pháp cho chúng ta, sanh trưởng Pháp Thân của chúng ta, là bậc phụ mẫu
Pháp Thân của chúng ta. Thế nên, chúng ta cũng phải hiếu thuận với sư trưởng
cũng như đối với cha mẹ, không được trái nghịch mảy may.
Thiện hữu giúp đỡ
chúng ta, ủng hộ mọi việc và khích lệ trên đường tu học, khiến cho đạo nghiệp
hoặc huệ nghiệp của chúng ta được tăng trưởng liên tục, cũng như vị huynh
trưởng trong gia đình thế tục. Vì vậy, chúng ta phải hết lòng cung kính, xem họ
như bậc huynh trưởng trong gia đình, không nên có chút tâm niệm kiêu
ngạo.
Nếu có đủ lòng
cung kính và hiếu thuận như vậy, mới gọi là Phật tử chân chánh, nghĩ đến Phật
pháp mà nhập đạo.
Nho gia có câu:
“Thành ư trung, hình ư ngoại” (lòng thành kính có ở trong tâm sẽ hiện hình
tướng bên ngoài). Nếu chỉ có lòng hiếu thuận cung kính bên trong mà không thể
hiện thái độ bên ngoài thì cũng không hoàn toàn là sự cung kính.
Do đó, Phật dạy
phải có thái độ lễ mạo bên ngoài: “Thấy thượng tọa phải đứng dậy, tiếp rước,
lạy chào, hỏi thăm. Thấy hòa thượng phải đứng dậy, tiếp rước, lạy chào, hỏi
thăm. Thấy A Xà Lê phải đứng dậy, tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm. Cho đến thấy
những bậc đại đức đồng kiến, đồng hạnh, cũng đều phải đứng dậy, tiếp rước, lạy
chào, hỏi thăm”.
Thượng Tọa là
đối với Hạ Tọa mà nói. Chức vị này ở trong chúng xuất gia của Phật giáo phân
biệt rất là nghiêm cách. Kinh Tỳ Ni Mẫu thuyết minh: “Các vị xuất gia từ bậc
chưa có hạ nào đến khi có chín hạ được liệt vào Hạ Tọa; từ mười hạ đến mười
chín hạ là Trung Tọa; từ hai mươi hạ đến bốn mươi chín hạ là Thượng Tọa; từ năm
mươi hạ trở lên hàng trưởng lão kỳ cựu, tất cả sa môn, quốc vương đều phải tôn
kính”.
Nói theo giới
luật, phải thọ Cụ Túc hai mươi hạ trở lên mới có tư cách là Thượng Tọa, hai
mươi hạ trở xuống gọi là Trung Tọa, mười hạ trở xuống gọi là Hạ Tọa. Hàng Hạ
Tọa phải lễ bái Trung Tọa, Trung Tọa phải lễ bái Thượng Tọa.
Đồng là Thượng
Tọa, nhưng lại chia ra mấy loại như sau:
1. Sanh niên
Thượng Tọa: vị niên kỷ đã cao, như hai mươi tuổi thọ Cụ Túc giới, ở trong tăng
đoàn trải qua mấy mươi năm, nay tuổi đã năm mươi, sáu mươi, hoặc bảy mươi, tám mươi.
Vị này không có chi đặc sắc, nhưng vì tuổi tác cao, hạ lạp nhiều nên được suy
tôn Thượng Tọa.
2. Phước đức
Thượng Tọa: vị này không căn cứ vào niên kỷ lớn nhỏ. Do pháp duyên hưng thạnh
(nhân duyên hoằng truyền Phật pháp được lan rộng), phước báo rất lớn, đến nơi nào
cũng được hàng Phật tử ủng hộ, kính trọng. Tùy theo nơi nào thuận lợi cũng đều
có thể kiến lập đại đạo tràng, để có chỗ cho hàng Phật tử lễ bái, cúng dường, tu
phước. Vì thế nên được suy tôn là phước đức Thượng Tọa.
3. Trí huệ
Thượng Tọa: vị này cũng không phân biệt theo niên kỷ già trẻ, lớn nhỏ. Vị này
hai mươi tuổi thọ Cụ Túc, vì trí huệ cao siêu nên lảu thông Tam Tạng Thánh Giáo
rất nhanh, đến đâu cũng hoằng dương Phật pháp, tiếp dẫn nhân quần tín phụng
Phật pháp, nên được suy tôn là trí huệ Thượng Tọa.
4. Pháp tánh
Thượng Tọa: đây là bậc thánh nhân đã chứng ngộ pháp tánh, đắc thành quả La Hán,
là bậc Thượng Tọa thù thắng nhất trong các thượng tọa.
Bất luận Thượng
Tọa thuộc loại nào, chỉ cần thấy chư vị từ nơi khác đến, chúng ta phải liền
đứng dậy ra ngoài nghinh tiếp, dắt vào điện Phật. Sau khi Thượng Tọa lễ Phật
xong, nên đến trước quý ngài lễ bái, sau đó hỏi thăm: “Thượng Tọa đi đường có
khổ nhọc lắm không? Tứ đại khinh an hay không? Chúng sanh dễ độ không?” Những cử
chỉ như thế là biểu lộ lòng hiếu thuận cung kính.
Đối với bậc
Thượng Tọa như thế, lúc thấy Hòa Thượng cũng thực hành như vậy.
Hòa Thượng còn
gọi là Ô Bà Đa Gia, là phiên âm theo tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Lực Sanh.
Hòa Thượng có ba loại:
- Hòa Thượng
truyền Thập Giới.
- Hòa Thượng
truyền Cụ Túc Giới.
- Hòa Thượng
truyền Bồ Tát Giới.
Hòa Thượng truyền
Bồ Tát Giới chính là chư Phật. Cho nên hai chữ Hòa Thượng trong Phật pháp là
một địa vị rất tôn trọng, không phải bất cứ người nào cũng có thể tùy tiện xưng
hô. Nhiều người không hiểu ý nghĩa chữ Hòa Thượng, rồi cho rằng Hòa Thượng
không có ý nghĩa gì quan trọng cả, thật là sai lầm rất lớn.
Hòa Thượng dịch
là Lực Sanh, ý nói năng lực của Thầy có thể sanh trưởng các công đức cho mình,
nên gọi là Lực Sanh. Về việc thọ giới thì nhờ năng lực thọ giới nơi thầy mà
sanh trưởng Pháp Thân vô lậu diệu giới cho mình. Đây là một việc rất khó được
và đáng tôn quý biết dường nào! Cho nên Hòa Thượng là danh xưng rất tôn trọng,
không nên xem thường và không nên kêu gọi trong hàm ý khinh thị.
A Xà Lê còn gọi
là A Giá Lê Gia, có năm loại:
- Yết Ma A Xà
Lê.
- Giáo Thọ A Xà
Lê.
- Tôn Chứng A Xà
Lê.
- Thọ Kinh A Xà
Lê (giảng dạy kinh, luật, luận).
- Y Chỉ A Xà Lê
(bậc thầy mình nương theo để tu học).
Luật dạy rằng:
“Sa Di không
được xa thầy một đêm, tỳ kheo đủ năm hạ, có trí huệ, thông hiểu kinh luật mới
được lìa Thầy. Nếu là người độn căn phải suốt đời nương theo Thầy”.
A Xà Lê: Trung
Hoa dịch là Quỹ Phạm Sư, nghĩa là vị thầy có khả năng dạy bảo, dẫn dắt chúng ta
những oai nghi, cử chỉ cần phải thực hành. Dạy chúng ta những gì nên làm hoặc
không nên làm. Dạy chúng ta nhận thức những ý nghĩa sâu nhiệm trong Phật pháp
để tu hành. Địa vị A Xà Lê đồng với vị Giáo Giới Sư, trong phần sau sẽ giảng
rõ.
Đại đức: danh
xưng thông thường của chúng xuất gia, biểu thị chúng xuất gia là người có công
đức rất lớn.
Đồng học: chỉ
những người đã thọ giới Bồ Tát, những người cùng học chung một thầy, học tập
đạo pháp xuất thế, học tập Bồ Tát Tạng.
Đồng kiến: chỉ
những người thọ Bồ Tát giới, có cùng tư tưởng, kiến giải, và cùng lấy pháp Đại
Thừa Bồ Tát Tạng làm tư tưởng, kiến giải cho mình.
Đồng hạnh: chỉ
những người thọ giới Bồ Tát, cùng thực hành Bồ Tát đạo, và hành vi đạo đức
giống nhau.
Nếu lúc trông
thấy bất cứ vị đại đức nào hay các vị đồng học, đồng kiến, đồng hạnh... đến chỗ
mình, phải liền đứng dậy tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm, thể hiện tâm hiếu
thuận, và cung kính một cách cụ thể, không nên có thái độ lơ là, biếng nhác, dù
chỉ thể hiện một cách hết sức vi tế.
Tất cả những
điều nói trên hợp lại đầy đủ ba nghiệp kiền thành:
- Tâm hiếu thuận
là ý nghiệp kiền thành.
- Đứng dậy, tiếp
rước, lạy chào là thân nghiệp kiền thành.
- Hỏi thăm là
khẩu nghiệp kiền thành.
Dùng ba nghiệp
thanh tịnh kiền thành như vậy để tôn trọng sư trưởng, cung kính thiện hữu là
những lễ mạo và thái độ của người Phật tử nên có khi thực hành Bồ Tát
đạo.
Là một vị Bồ Tát
phát Bồ Đề tâm, từ tâm tưởng bên trong đến thái độ biểu hiện bên ngoài, đều
phải y theo lời Phật dạy như trên để thực hành.
Nếu những trường
hợp cần sanh tâm hiếu thuận mà không khởi tâm hiếu thuận, lại thêm sanh khởi
tâm kiêu mạn, tâm si, tâm sân...
Hoặc cần sanh tâm
cung kính mà không có tâm cung kính, trái lại khởi tâm kiêu mạn v.v... (bổn
Việt văn dịch: “Nếu Phật tử lại sanh lòng kiêu mạn, sân hận, ngu si”).
Hoặc trường hợp
cần phải đứng dậy tiếp rước, lạy chào, nhưng trái lại không đứng dậy, tiếp
rước, lạy chào hoặc cần phải mỗi việc nhất nhất đúng theo pháp cúng dường mà
trái lại mỗi việc không đúng như pháp cúng dường... Như thế đều không đúng với
tư cách một vị Bồ Tát.
Kiêu tâm: đối
với bề trên không có tâm cung kính, hoặc tự tôn, tự đại, cho mình là hơn hết.
Mạn tâm: sanh
tâm xem rẻ những người khác, hoặc với những người ngang hàng, lại tự cho mình
cao hơn một bực, gọi là mạn tâm.
Tâm kiêu mạn:
thứ tâm lý làm trở ngại sự hướng thượng của mình. Đối với Thầy, bạn, tâm không
cung kính là việc không nên. Nếu trong tâm có một niệm kiêu mạn chừng mảy may, thì
không thể chân thành cung kính thầy, tôn trọng bạn và tăng trưởng công đức cho
mình.
Nên cổ đức có
dạy:
Ngã mạn cao
sơn,
Bất sanh đức
thủy.
Dịch:
Nước ngã mạn cao
chọc trời,
Không thể nào
sanh được nước công đức.
Si tâm: tâm kém
thiếu về trí huệ, nên khi thấy bậc thánh nhân không sanh lòng cung kính, thấy
người hiền, không chịu thân cận, thậm chí đối với bậc thánh, bậc hiền, cũng
không thể phân biệt được ai thánh, ai hiền.
Sân tâm: trong
lòng ôm ấp niệm sân hận. Thầy, bạn vì muốn cho mình nên người nên lúc răn dạy
có phần nghiêm khắc, liền sanh tâm niệm bất mãn cực điểm, nên luôn cảm thấy buồn
giận trong lòng. Vì nội tâm mang những tâm ý không chánh đáng như thế nên khi
thấy thầy, bạn đến, không đứng dậy, tiếp rước, cũng không lạy chào hoặc hỏi
thăm.
Kiêu tâm, mạn
tâm, si tâm, sân tâm, bốn thứ này thuộc về ý nghiệp.
Không đứng dậy,
tiếp rước, lạy chào thuộc thân nghiệp.
Không hỏi han về
sinh hoạt của thầy bạn thuộc về khẩu nghiệp.
Dùng ba nghiệp
không thanh tịnh ấy đối đãi với thầy bạn thì dù có đem tứ sự cúng dường như
thức ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc men cũng không phải đúng như pháp dạy,
không có giá trị gì. Những hành động ấy cũng không được mỹ tán.
- Tứ sự cúng
dường là Sự cúng dường.
- Đứng dậy, tiếp
rước, lạy chào là cung kính cúng dường.
- Đúng theo pháp
dạy mà tu hành là pháp cúng dường.
Bất cứ thứ nào
trong ba thứ cúng dường trên, điều tối yếu là phải đúng như pháp dạy. Trái lại,
nếu đối với thầy, bạn lúc đến chỗ mình, dù mình có sắm sửa đầy đủ đồ cúng
dường, nhưng mỗi việc đều không đúng như pháp thì cũng không có ý nghĩa
gì.
Như thế, lúc
thầy - bạn đến chỗ mình, cần phải làm như thế nào?
Cần phải tôn
trọng chánh pháp, xem rẻ thân mạng, tài vật, chỉ tha thiết cầu đại đạo vô
thượng Bồ Đề.
Bên trong thì
đem thân của mình đi bán, bên ngoài thì hy sinh quốc độ, thành trì, hoặc đem
bán con trai, con gái của mình, hoặc đem thất bảo quý trọng đi bán, hoặc đem
trăm thứ đồ vật đi bán để cung cấp cho thầy bạn, mới là chân chánh đúng như
pháp cúng dường. Cung kính cúng dường cần phải thực hiện đến mức độ ấy, huống
chi chỉ có sự đứng dậy, tiếp rước, lạy chào thì lẽ đương nhiên phải đúng như
pháp mà thực hành.
Bản thân như đức
Thường Đề Bồ Tát, ngài hành Bồ Tát đạo trong thời đức Đại Lôi Âm Vương Phật. Vì
muốn nghe pháp Bát Nhã thậm thâm, ngài bèn đi cầu pháp và hy sinh không tiếc thân
mạng.
Tâm chí thành
của Bồ Tát cảm ứng đến Phật. Ngài liền hiện thân giữa hư không dạy rằng: “Này
Thường Đề! Hiện nơi đây có Đàm Vô Kiệt đại sĩ đang tuyên thuyết Bát Nhã, nếu
ông đến đấy có thể được nghe pháp Đại Thừa theo chỗ mong cầu của ông”.
Thường Đề Bồ Tát
nghe Đức Phật dạy như vậy, liền cung kính ngửa mặt lên hư không, bạch rằng:
“Kính bạch Thế Tôn! Đó là điều ý nguyện con rất mong mỏi. Nhưng vì tôn kính Pháp
Bảo nên không có phẩm vật để cúng dường, trong khi con là kẻ nghèo cùng, không
có vật chi thì lấy gì cúng dường? Nhưng rất may, con còn có cái thân mạng này.
Nay con sẽ đem bán thân này để cúng dường pháp sư để cầu Bát Nhã thậm
thâm”.
Lúc ấy, trời Đế
Thích nghe những lời trên, liền hóa làm một người Bà La Môn, đến trước mặt
Thường Đề Bồ Tát nói rằng: “Tôi đang cần cúng trời những phẩm vật cúng dường rất
khó mua. Vì cần phải có tim người, huyết người, tủy người còn sống, như vậy,
chẳng biết ông có bằng lòng bán cho tôi không?”
Thường Đề Bồ Tát
vừa nghe xong lời ấy vô cùng hoan hỷ, đến nỗi thân hình nhảy nhót và đáp rằng:
“Rất may! Tôi nhân đây mà có thể được nghe đại pháp”.
Nói xong liền
cắt tim, lấy máu, chẻ xương lấy tủy, bán cho người bà la môn dùng tế trời để
lấy số tiền đại lượng mua phẩm vật cúng dường Đàm Vô Kiệt đại sĩ. Vì mong cầu được
nghe pháp Bát Nhã mà ngài đã làm việc quá khó làm như thế, thật đáng quý biết
dường nào!
Lại như đức Bổn
Sư Thích Ca trong thời kỳ tu nhân, hành Bồ Tát đạo. Lúc đó, ngài lảm người hết
sức nghèo cùng khốn khổ, nhưng tuy bản thân nghèo mà tâm đạo không nghèo. Lòng ngài
cầu pháp không bao giờ lui sụt. Vì muốn nghe kinh Đại Bát Niết Bàn, vì muốn
cúng dường Đức Phật thuyết pháp, nên mỗi ngày, Ngài tự cắt hai lượng thịt trên
thân mình, bán cho bệnh nhân đang cần thịt tươi để trị bệnh. Bán như thế trong
một tháng được số tiền lớn, ngài mua phẩm vật cúng dường Phật không còn một
đồng.
Với tinh thần vì
pháp không tiếc thân mạng này, không phải người thường có thể làm được. Đời
nay, dù nghèo đến đâu, cũng chưa đến nỗi phải bán thân cúng dường cầu pháp. Do
đó, có thể thấy tâm cầu pháp của chúng ta có nhiệt thành và lòng cung kính đối
với pháp bảo có hết mức hay không?
Hai truyện vì
pháp quên mình trên là một tấm gương sáng, chứng tỏ lòng tôn trọng giới pháp và
phụng hành hiếu đạo hết sức quý báu! Vậy hàng Phật tử chúng ta, bất luận tại gia
hay xuất gia, là người con của Phật, nên nhất tâm học theo gương Phật.
Chúng ta nên
biết rằng: bổn nguyên tâm địa giới pháp không riêng chúng ta phải tôn trọng,
cung kính mà cả chư Phật đều phải cung kính, tôn trọng. Cho nên, chúng ta đối
với Pháp Bảo cần phải sanh tâm cung kính.
Bổn Sanh Luận
dạy: “Người nghe Phật pháp mà phát sanh tâm kính tín, nhờ đó trí huệ sẽ khai
phát, xa lìa ngu si”.
Vì thế, chẳng
những dùng tiền của, bảo vật thế gian cúng dường là việc rất quý mà có dùng
thịt của thân mình để cầu pháp cũng là việc hợp lý.
Tại vì sao? Vì
tôn trọng chánh pháp vậy.
Cho nên, đối với
thâm ân, trọng đức của pháp sư thuyết pháp, thầy bạn trao truyền giới pháp và
dạy dỗ cho mình, phải đền đáp bằng sự kính trọng kiền thành. Vì thế, một hành
giả thọ Bồ Tát giới, hành Bồ Tát hạnh, không việc gì khẩn yếu hơn là việc tôn
kính thầy - bạn.
Trên thực tế,
người thế gian thông thường nếu không có sự dạy bảo, dẫn dắt của thầy còn không
thể thành công. Huống chi chúng ta từ vô lượng kiếp trôi lăn trong ác đạo, giờ đây
muốn đến cảnh an lạc mà mình chưa từng đến, không thể nào không thầy mà đi
được.
Vì thế, đối với
thầy - bạn, đâu nên không tôn trọng, cung kính. Làm người sanh ra trên cõi đời
này, không vật gì yêu tiếc quý báu hơn sanh mạng bên trọng. Nhưng sanh mạng còn
hy sinh được thì với quốc độ, thành trì bên ngoài, dĩ nhiên không thành vấn
đề.
Nhưng trong lịch
sử nhân loại, sở dĩ chiến tranh bùng nổ, tàn khốc đều phát xuất từ nguồn gốc
tranh đoạt quốc độ, thành trì, đến nỗi trong lịch sử thường xảy ra bao cảnh “sát
nhân dinh thành, sát nhân dinh dã” (giết người thây chết đầy thành, giết người
thây nằm chật đồng), thật vô cùng tàn khốc! Nguyên nhân chỉ vì nhân loại có một
thứ dục vọng tựa hồ sẵn có từ lúc mới sanh!
Khi chưa thành
người thống trị quốc độ, thành trì thì tìm đủ biện pháp để thống trị. Sau khi
đạt được chí nguyện rồi, bấy giờ bèn dùng tất cả thủ đoạn để bảo vệ địa vị
thống trị của cá nhân mình. Khi có sự xâm phạm ngoại lai, hoặc phản loạn trong
nội địa, thì liền không ngần ngại chọn ngay biện pháp chiến tranh để bảo vệ
quyền thống trị của mình. Vì thế, muốn những người thống trị vất bỏ địa vị
thống trị quốc thành để cầu pháp vô thượng thậm thâm Bát Nhã, Niết Bàn là việc
tuyệt đối không bao giờ có được.
Nhưng một hành
giả Bồ Tát chân chánh, dù đương thống lãnh một quốc gia rộng lớn như thế nào,
dù đang có quyền hành thống trị đến đâu, nhưng khi gặp được đại pháp vô thượng thậm
thâm của Như Lai, liền từ bỏ tất cả, không do dự một mảy may. Nhưng cầu được
đại pháp ấy, phải do nơi thầy - bạn, nên đương nhiên phải cúng dường thầy -
bạn.
Trong kinh văn
nói “con cái” là chỉ cho con trai, con gái thân yêu, do chính mình sanh dưỡng.
Thông thường ở đời, bổn phận làm cha mẹ, dù hoàn cảnh gia đình nghèo cùng, khó
khăn đến đâu, cũng muốn nuôi nấng, thương yêu con mình cho được đầy đủ, tử tế,
không nỡ đem chúng bán cho người.
Nhưng đối với
hành giả Bồ Tát, mục đích duy nhất là trọng pháp, trọng thầy, nên bất luận là
con cái của mình, vì có tâm thâm tín đối với Phật pháp, nên chẳng những tự nguyện
bán thân, mà ngay đến những người cốt nhục thân tình đến đâu, Bồ Tát vẫn dứt
tình thân ái thế gian, đem con của mình đi bán, để cúng dường thầy bạn, hầu
hướng về chánh pháp của Như Lai.
Thất bảo (bảy
báu): những thứ quý báu thuộc về ngoại tài, và trăm thứ đồ vật rất nhiều, chỉ
cần có lợi cho việc cầu đại pháp, Bồ Tát đều có thể mang cúng dường cho thầy -
bạn không tiếc nuối mảy may. Vì chánh pháp của thầy - bạn ban cho chúng ta rất
quý báu, hy hữu, ngàn muôn kiếp khó gặp được. Có thể làm cho chúng ta tăng
trưởng trí huệ, cho đến chứng đắc quả Vô Thượng Bồ Đề.
Vì thế, đối với
pháp sư thuyết pháp hoặc giới sư truyền trao giới pháp, chúng ta cần phải xem
các ngài như Phật, phải hết lòng cung kính cúng dường, tuyệt đối không nên có
tâm khinh mạn, dễ duôi. Vì lý do trên, nên cuối cùng Đức Phật kết thúc thành
hau câu: “Nhược bất nhĩ giả, phạm khinh cấu tội” (nếu không y lời dạy trên thì
phạm khinh cấu tội).
Kết thành tội
của bất kính sư hữu giới (giới không kính thầy bạn) này, phải đủ bốn duyên như
sau:
1. Là thầy bạn:
tức chỉ bực Thượng Tọa, Hòa Thượng, A Xà Lê và những vị đồng học, đồng kiến,
đồng hạnh nói trên.
2. Tưởng thầy
bạn: cũng như ở trước, có sáu trường hợp khác nhau. Trong ấy, hai trường hợp
thuộc về trọng tội, hai trường hợp thuộc tội khinh cấu, và hai trường hợp không
phạm.
3. Không có tâm
cung kính: nếu phát xuất từ bốn thứ tâm lý: kiêu, mạn, sân, si, nếu không đứng
dậy, tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm thì phạm tội nhiễm ô khởi. Nếu do tánh lười
biếng, giải đãi hoặc tâm vô ký hay lầm quên không để ý, nếu không đứng dậy tiếp
rước... thì phạm tội, nhưng không phải nhiễm ô khởi.
4. Không đúng
pháp cung kính cúng dường: trường hợp phải đứng dậy, tiếp rước mà không tiếp
rước. Phải cúng dường mà không cúng dường. Đến lúc việc ấy xảy ra hoàn tất, tùy
theo sự kiện mà kết tội, quyết định không dung thứ. Cho nên Phật tử đã bẩm thọ
giới Bồ Tát, trong bất cứ trường hợp nào, đối với pháp và thầy - bạn thuyết
pháp, đều phải cung kính tôn trọng, cúng dường một cách kiền thành.
Giới này chỉ cấm
chứ không khai mở. Nhưng trong những trường hợp sau đây, dù không cung kính
thầy - bạn được hoàn bị, vẫn không trái phạm:
- Lúc thân bị
bệnh nặng buộc ràng.
- Nội tâm điên
cuồng không hay biết.
- Lúc ngủ
mê, không biết thầy - bạn đến.
- Tự mình
trong khi vì đại chúng thuyết pháp.
- Hoặc mình đang
chuyên tâm nhất ý nghe Phật pháp.
- Vì cần phải hộ
tâm ý của Pháp Sư thuyết pháp, đừng để ngài vì mình rời khỏi chỗ ngồi mà sanh
tâm bực dọc.
- Hoặc vì mượn
phương tiện không thèm tiếp rước này để điều phục thầy - bạn, khiến cho họ xa
lìa các ác pháp, an trụ trong thiện pháp.
- Hoặc vì giữ
gìn quy luật trong tăng đoàn.
- Hoặc vì cần
ủng hộ tâm lý của đa số người, sợ e đứng dậy, tiếp rước, lạy chào làm cho trong
đại đa số người ấy sanh tâm bất mãn.
Với những nhân
duyên trên, nếu bạn không đứng dậy, tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm thầy - bạn,
hoặc không đúng như pháp cúng dường, đều không trái phạm.
Trừ các nhân
duyên trên, ngoài ra bất cứ nhân duyên chi, không đứng dậy, tiếp rước, lạy
chào, cúng dường, hoàn toàn không cho phép.
Tại sao xem vấn
đề bất kính sư hữu giới quá quan trọng như vậy?
Chúng ta phải
biết thầy bạn hoặc thiện tri thức là một nhân duyên hết sức thù thắng, giúp cho
việc tu hành đắc đạo của chúng ta được viên mãn, thành tựu phạm hạnh thanh
tịnh. Nên không có lý do gì khiến chúng ta không cung kính tôn trọng.
Cho nên cổ đức
có dạy rằng: “Không cung kính thầy - bạn thì mất hẳn sự lợi ích trong Phật
pháp, lại bị ma nhiếp trì. Trái lại, cung kính thầy bạn thì thường xuyên gặp được
duyên lành thành tựu Phật pháp”.
Căn cứ lời dạy
trên đây, chúng ta có thể thấy rõ điểm trọng yếu ở đây là tôn kính cúng dường
thầy - bạn.