Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ Lục 1: Yếu Lược

16 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6312)
Phụ Lục 1:  Yếu Lược

NGUYÊN NGUYÊN
Dịch giải
KIM CANG

DIỆU CẢM

Phụ lục 1

YẾU LƯỢC

 

 Nhìn lại lời Kinh, thấy rằng với trí huệbiện tài của Thế Tôn thì lời lẽ của Người không phải là lời lẽ thường. Tất phải là như vậy! Bởi vì lời lẽ thường thì không thể chuyển tải được Diệu Pháp vô ngôn!

 Nói cách khác thì kinh Kim Cang không hề là một bài kinh dễ đọc! Điều đó Tổ Huệ Năng từng nói rõ: “ Phật đã vì những bậc đại tríthượng cănthuyết giảng.”

 Đó là duyên do của phần “Yếu lược” nầy vậy:. Là hi vọng trong muôn một giúp cho việc đọc kinh được dễ hơn!

 Nội dung của “Yếu lược”tóm tắt ý chính của 32 đoạn kinh.

 

Đoạn 1 PHÁP HỘI NHÂN DO

 Đọc đoạn nầy hành giả có thể mường tượng trong trí quang cảnh của rừng Kỳ Đà và vườn Cấp Cô Độc. Hành giả cũng có thể mường tượng mà thấy phong cách của Thế Tôn. Hành giả cũng biết ý nghĩa chân thật của hành vi gọi là “khất thực”.

Đoạn 2 THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH

 Đoạn nầy kể lại việc trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi Pháp. Hai câu hỏi là: Nếu có người trai lành hoặc gái tốt phát tâm chánh đẳng chánh giác thì phải

  . an trụ tâm như thế nào?

  . hàng phục tâm như thế nào? 

Đoạn 3 ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG

 Thế Tôn thuyết giảng về phép “hàng phục tâm”.

 “Hàng phuc tâm” bằng cách nào? Bằng cách “độ” chúng sinh vào “vô dư niết bàn”.

 Điều đó có nghĩa là sao? Cốt là ở cái thấy không chấp tướng, để thấy chúng sinh trong Như Tánh của chúng.

Đoạn 4 DIỆU HẠNH VÔ TRỤ

 Thế Tôn diễn giải ý “vô trụ” trong hành vi bố thí _ gọi là “bố thí không trụ tướng”. Bố thí mà như thể là không bố thí. Cách bố thí nầy làm phát sinh “phước đức vô tướng”. Phước đức nầy lớn vô lượng.

Đoạn 5 NHƯ LÝ THỰC KIẾN

 Thế Tôn chỉ ra điểm sai lầm thường có trong đại chúng: thấy thân tướng thái tử Tất Đạt Đa mà nghĩ rằng đó là Như Lai.

 Nhân dạng thái tử Tất Đạt Đa thì chỉ mới là một trong ba thân Phật: “hóa thân” . “Như Lai” thì còn hơn thế: còn gồm cả “báo thân” và “Pháp Thân”!

Đoạn 6  CHÁNH TÍN HI HỮU

 Đoạn trên nói về Như Lai vô tướng. Đoạn nầy nói về Phật Pháp vô tướng.

 Phật Pháp vốn vô tướng. Nhưng thường phải dùng lời , là tướng, để chuyển tải. Phật Pháp vô tướng thì tất nhiên không “chấp” được. Khi ta chấp thì tức là ta chỉ chấp lời, cũng nói là “chấp kinh”. Cái mà ta chấp như vậy không phải là Chánh Pháp.

Đoạn 7 VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT

 Thế Tôn tiếp tục nói về Pháp vô tướng, với một tên khác là “Pháp vô vi”.

 Lặp lại ý “Không có Pháp nhất định để Như Lai thuyết”.

 Đoạn nầy cũng giải trừ định kiến về “đắc”_ ở đây là “đắc Pháp”. Pháp không thể “đắc”, vì là “vô tướng”, hay “vô vi”.

Đoạn 8 Y PHÁP XUẤT SINH

 Thế Tôn nói về phước đức vô hạn phát sinh từ việc trì tụng và diễn giải kinh Kim Cang. Tuy vậy Thế Tôn cũng nhắc nhở rằng kinh không phải chính là Phật Pháp. Chỉ là « phương tiện », như ngón tay chỉ trăng.

Đoạn 9 NHẤT TƯỚNG VÔ TƯỚNG

 Thế Tôn nói về những quả vị một tu sĩ có thể chứng đắc. Tuy vậy nếu như nói « ta đắc » quả vị nầy hay quả vị khác thì là mê trong « ngã chấp ».

Đoạn 10 TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ

 Thế Tôn phủ định khái niệm « Tịnh độ » như là có tính không gian và thời gian. Cũng theo đó Người phủ định truyền thuyết Phật Thích Ca xưa được thọ ký nơi Phật Nhiên Đăng. Và cũng theo đó Người thay khái niệm « trang nghiêm Tịnh độ » bằng khái niệm « sinh tâm thanh tịnh ». Ý nghĩa việc « sinh tâm thanh tịnh » được cô đọng trong câu kinh thực quan trọng :

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.

Đoạn 11 VÔ VI PHƯỚC TƯỚNG

 Thế Tôn nói về phước đức vô lượng phát sinh từ việc diễn giải kinh nầy cho người khác hiểu. Thứ phước đức nầy cũng được gọi là « Tánh phước đức », tức là thứ phước đức ở bình diện Tánh.

Đoạn 12 NHƯ PHÁP THỌ TRÌ

 Thế Tôn nói về uy lực của kinh nầy : nơi nào có kinh nầy, nơi nào kinh nầy được thuyết giảng thì nơi đó như là có Phật và các đại đệ tử hiện tiền. Có nghĩa rằng dù là nơi được xem như là « phàm tục » cũng trở thành linh thánh. Thế Tôn cũng nói rằng người thọ trì kinh nầy là người thành tựu được Pháp cao quý nhất.

Đoạn 13 NHƯ PHÁP THỌ TRÌ

 Phật thuyết mấy ý sau :

 . Tên kinh là Kim Cang Bát-nhã-ba-la-mật. Hàm ý là kinh có năng lực khai mở trí bát-nhã độ người sang « bờ bên kia ».

  . Phật thuyết Pháp như là một phương tiện chuyên chở Pháp, do đó chớ nên « chấp kinh » như là chân lý nhất định.

  . Qua những khái niệm « vi trần » và « thế giới» Thế Tôn khơi gợi cho thấy rằng chúng ta chưa thấy biết đúng về thế giới nầy. Thế giới nầy huyền vi hơn chỗ ta nghĩ.

 . Thế Tôn nói cho biết rằng không nên dựa vào « tướng » mà nghĩ rằng đã có thấy biết về Như Lai. NhưLai vốn huyền vi hơn chỗ người ta thấy qua « tướng ».

  . Thế Tôn lặp lại ý nói về phước đức lớn phát sinh từ việc trì tụng và diễn giải kinh Kim Cang.

Đoạn 14 LY TƯỚNG TỊCH DIỆT

 Đoạn nầy có mấy ý sau :

  . Trưởng lão Tu Bồ Đề nghe kinh mà ngộ « thực tướng » của mình. « Thực tướng » ấy về sau Thiền gia gọi là « Tánh », hay « Bản lai diện mục ». « Thấy thực tướng » tức là « thấy Tánh ».

 . « Thực tướng » là vượt qua bên kia « tướng », cũng là « vô tướng ». Ba-la-mật, tức là « bờ bên kia », có nghĩa như vậy. Thế Tôn nói rõ ý ba-la-mật trong bố thí ba-la-mật và nhẫn nhục ba-la-mật. Cũng gọi là « bố thí vô tướng’ và « nhẫn nhục vô tướng ».

Đoạn 15 TRÌ KINH CÔNG ĐỨC

 Thế Tôn nói về công đức không thể nghĩ bàn của kinh Kim Cang. Từ đó việc thọ trìdiễn giải kinh nầy tạo nên phước đức rất lớn.

Đoạn 16 NĂNG TỊNH NGHIỆP CHƯỚNG

 Thế Tôn nói rằng công đức phát sinh từ việc trì tụng kinh nầy có khả năng giải trừ ác nghiệp tích lũy từ trước.

Đoạn 17 CỨU CÁNH VÔ NGÃ

 Thế Tôn diễn giải những ý sau :

  . Chấp « ngã tướng » cũng gọi là « ngã chấp ». Còn « ngã chấp » thì là còn chấp có ta, có người. Chẳng hạn như trong việc « độ » thì có phân biệt người độ và người được độ_ tức là có tâm phân biệt « năng độ » với « sở độ ». Hàng Bồ Tát không có cái tâm phân biệt đó. Vì vậy mà nói rằng Bồ Tát thấu lý « vô ngã ».

  . Để thấu lý đó, tức là để cái tâm ngã chấp chuyển hóa thành tâm Bồ Tát như vậy, vốn không có « Pháp » nhất định. Ấy là Thế Tôn có ý ngăn ngừa bệnh « chấp Pháp ». v

Đoạn 18 NHẤT THỂ ĐỒNG QUÁN

 Đoạn nầy có mấy ý sau :

  . Thế Tôn thuyết giảng về năm thứ mắt, cũng có nghĩa là năm trình độ thấy biết.

 Thấp nhất là « nhục nhãn », ấy là khả năng thấy biết giới hạn trong vòng lục trần _ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

  Cao nhất là « Phật nhãn », có khả năng « thấy Tánh ».

 Mặc dù Phật và chúng sinh về phương diện « thể » thì là không-hai, nhưng về phương diện « dụng » thì có khả năng có nhiều cấp bậc tiến hóa khác nhau và có nhiều trình độ thấy biết khác nhau .

  . Thế Tôn thuyết giảng về « vọng tâm » dưới những dạng « quá khứ tâm », « hiện tại tâm » « vị lai tâm ».

Đoạn 19 PHÁP GIỚI THÔNG HÓA

 Thế Tôn thuyết giảng về « phước đức hữu tướng »« phước đức vô tướng ».

  « Phước đức vô tướng » thì nhiều và lớn vô lượng

Đoạn 20 LY SẮC LY TƯỚNG

 Thế Tôn nói : Không thể dựa vào « sắc’ và « tướng » mà cho là thấy Như Lai.

 « Như Lai » bao gồm cả ba thân Phật : Pháp thân, báo thân, hóa thân.

Đoạn 21 PHI PHÁP SỞ THUYẾT

 Thế Tôn phá cái chấp về « thuyết Pháp », đồng thời phá cái chấp về « chúng sinh » nghe Pháp.

Đoạn 22 VÔ PHÁP KHẢ ĐẮC

 Thế Tôn phá cái « chấp ngã » và « chấp Pháp », tức là phá cái tâm thấy có sự phân biệt « năng đắc » và « sở đắc » _ trong tư tưởng rằng Phật đắc Pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đoạn 23 TỊNH TÂM HÀNH THIỆN

 Phật Pháp vốn một, không phân biệt cao thấp, có tên gọi là « vô thượng chánh đẳng chánh giác ». « Pháp tướng » thì có nhiều, có tên là những « Pháp lành ».Tu các « Pháp lành » thì là hội nhập với Pháp « vô thượng chánh đẳng chánh giác ».

Đoạn 24 PHƯỚC TRÍ VÔ TỈ

 Thế Tôn chỉ cho thấy rằng thứ phước đức phát sinh từ việc bố thí bảy báu chất cao như vô số núi Tu Di không sánh được với phước trí phát sinh từ việc thọ trìdiễn giải kinh Kim Cang.

Đoạn 25 HÓA VÔ SỞ HÓA

 Thế Tôn phá cái chấp khái niệm « độ » _ trong ý tưởng « Phật độ chúng sinh ». Khi chấp như vậy thì có cái tâm phân biệt « năng độ » với « sở độ ».

 Thế Tôn cũng phá cái chấp khái niệm « phàm phu ». Đó cũng là cái chấp « chúng sinh tướng ».

Đoạn 26 PHÁP THÂN PHI TƯỚNG

 Thêm một lần Thế Tôn nói lên chỗ sai lầm của đại chúng : dựa vào ba mươi hai tướng tốt mà nghĩ là thấy Như Lai. Và Thế Tôn đọc bài « tứ cú kệ » nói rằng không thể dưa vào sắc tướngâm thanh để thấy Như Lai.

Đoạn 27 VÔ ĐOẠN VÔ DIỆT

 Ở đoạn trên Thế Tôn nói không thể dựa trên ba mươi hai tướng tốt để thấy Như Lai. Trong đoạn nầy thì thế Tôn nói rằng cũng không thể loại trừ yếu tố sắc tướng nơi hóa thân Như Lai.

 Thêm một ý nữa : Trong Phật Pháp không có « Pháp đoạn diệt ».

 Đoạn 28 BẤT THỌ BẤT THAM

 Thế Tôn nói về hạnh ba-la-mật của hàng Bồ Tát. Bồ Tát bố thí hay nhẫn nhục thì đều là bố thínhẫn nhục ba-la-mật _ không có lòng mong cầu phước báo.

Đoạn 29 UY NGHI TỊCH TĨNH

 « Tứ uy nghi » trong Phật học chỉ về bốn tướng đi, đứng, nằm, ngồi của Như Lai. Tướng ấy thật thanh tú phi phàm. Tuy vậy không thể dựa vào các tướng ấy mà nói là « thấy Như Lai », bởi vì thật ra không thể nói là NhưLai có đến và có đi.

Đoạn 30 NHẤT HỢP TƯỚNG

 Phàm phu thấy một hạt bụi chỉ là một hạt bụi. Và thấy rằng thế giới là một tướng hòa hợp của các hạt bụi _ để tạo nên « cõi trần ».

 Như Lai thấy hạt bụi không chỉ là một hạt bụi, và thế giới thì không phải là cái thế giới như vậy. Thể Tánh của hạt bụi và của thế giớimột thể thống nhất huyền vi.

Đoạn 31 TRI KIẾN BẤT SINH

 Trước đây Thế Tôn có nói là chớ chấp bốn tướng ngã,nhân, chúng sinh, thọ giả. Vì đều là hư vọng. Và đại chúng hẳn đã có cái thấy biết về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả như vậy. Ấy là chấp tính hư vọng của các tướng. Nếu thế thì tức là đã không hiểu đúng ý của Thế Tôn vậy !

 Trong đoạn nầy Thế Tôn còn dạy : « Chớ sinh pháp tướng ». Ấy là chớ để pháp tướng che mất Tự Tánh.

Đoạn 32 ỨNG HÓA PHI CHÂN

 Ở những đoạn trước Thế Tôn có nói về thứ phước đức vô lượng phát sinh từ việc đọc tụng kinh Kim Cangdiễn giải cho người khác hiểu.

 Trong đoạn nầy Thế Tôn nói rõ về những điều cơ bản cần diễn giải. Ấy là : « chớ chấp tướng » « như như bất động ».

 - «Chớ chấp tướng », bởi vì tướng giống như những cái bóng lướt qua, không chấp được.

 - « Như như bất động » có nghĩa là phải qua tướng mà thấy « Tự Tánh như như ».

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33325)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6570)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11320)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30424)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30450)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8003)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12228)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12274)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11628)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12861)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34825)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52289)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10768)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10541)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10735)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10482)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13101)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16310)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21874)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9641)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7142)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12788)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12811)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16256)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16554)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13883)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16617)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12147)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13858)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14346)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9228)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11770)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11292)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16358)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14374)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16216)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12706)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12100)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11811)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11532)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14035)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12684)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15007)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11978)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13147)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14573)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20748)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10981)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20738)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14383)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20414)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17679)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14042)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31873)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12032)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant