Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 3

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8877)
Phần 3


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 Phần 3

Cái pháp tam chuyển pháp luân tức là pháp Tứ Đế, đó là cái pháp xưa nay thường thanh tịnh. Chư thiên và người nhờ được pháp này mà chứng được đạo quả. Khi đó mới có đầy đủ tam bảo. Phật là Phật bảo. Pháp Tứ ĐếPháp bảo. Năm anh em ông Kiều Trần Như ngộ đạo thành Tỳ KheoTăng Bảo

Do cái pháp diệu này, dùng cái này mà cứu tế quần sinh. Một phen nhận không có lui sụt. Thường được yên lặng sáng suốt

Hai câu này là để nói kết quả của cái pháp mà Phật nói. Cái pháp vi diệu của Phật nói đó, dùng cái pháp đó để mà cứu tế quần sinh. Ai mà nghe được cái pháp đó rồi đều bất thối chuyển. Rồi đi đến chỗ thường vắng lặng thanh tịnh

Độ được già, bịnh, chết. Là bậc thầy thuốc, độ được già, bịnh, chết nên lễ cái pháp hải. Cái đức nó không có ngằn mé. Bởi vậy cho nên lễ cái pháp rộng lớn như biển, không có ngằn mé. 

Hai câu này để tán thán tiếp về pháp đó. Phật dùng pháp này mà độ tất cả những người đã tin tươngr được qua khỏi vòng già, bịnh, chết. Cho nên Ngài là một ông thầy thuốc. Vì vậykính lễ cái pháp có đầy đủ công đức vô lượng vô biên đó. 

Bây giờ bốn câu này nói: 

Khen chê không động như Tu Di
Nơi thiện, chẳng thiện, bình đẳng dùng lòng từ
Tâm hành bình đẳng như hư không
Ai nghe nhận bảo không kính vâng. 

Khen ngợi đức Phật, Ngài đối với kẻ khen người chê đều không có động. Giống như hòn núi Tu Di vậy. Dầu cho có giông bảo, nó vẫn trơ trơ. Đối với người thiện, bất thiện (là người ác). Ngài làm sao? Ngài đều bình đẳng do lòng từ bi của Ngài. Tức là Ngài dùng tâm từ bi mà nhìn người thiện, người ác đều thương xót bình đẳng chớ không có riêng khác. Còn mình bây giờ làm sao? Các người mình cho là hiền thì họ khổ mình thương phải không. Người mình cho là dữ họ khổ thì mình làm sao? Mình cười, đáng kiếp phải không? Đó, luôn luôn mình có cái tâm chỉ thương người hiền mà không thương người dữ. Còn Phật thì từ bi, Ngài thương cả hai. Người hiền người dữ Ngài vẫn thương bình đẳng. Bởi vậy nên nói tâm hành của Ngài bình đẳng, giống như hư không vậy. Mà tâm Ngài đã bình đẳng như hư không thì ai nghe được con người quí báu của Ngài mà không kính không vâng theo

Nay dâng Thế Tôn cái lọng bé này ở trong hiện ra cả tam thiên đại thiên thế giới của con. Nào là chư Thiên, Long, Thần, các Càn Thát Bà... và Dạ Xoa thảy đều thấy các cái có ở thế gian đều thấy rõ (tức là cái gì có ở thế gian đều thấy rõ). Đấy thập lực Ngài thương xóthiện ra cái biến hóa này. 

Đó là bốn câu nhắc lại, khen ngợi thần lực của Phật. Khi Ngài biến các lọng riêng thành một cái lọng lớn chung. Rồi các thế giới, đều hiện trong đó. Đó là cái điều rất hy hữu

Chúng thấy cái hy hữu đều tán thán Phật. Nay con cúi đầu đảnh lễ bậc tôn ở trong tam giới

Bởi vì chúng thấy việc làm của Phật đó là việc chưa từng có, cho nên họ đều tán thán. Bây giờ con sẽ đảnh lễ Ngài vì Ngài là bậc tôn trong tam giới

Ngài là bậc đại thánh, là đấng pháp vươngmọi người đều qui ngưỡng. Hay mọi người đều hướng về. Tâm thanh tịnh quán Phật đâu chẳng vui. Người nào đem tâm thanh tịnh mà quán xét nơi Phật đều có cái niềm hân hoan. Mỗi người đều thấy Thế Tôn ở trước mình. Đây là do thần lực của pháp bất cộng

Khen ngợi Phật là đấng đại thánh, là đấng pháp vương. Ngài là chỗ mà mọi người đều qui hướng. Nếu người nào trong tâm thanh tịnh mà nhìn thấy Phật đều có niềm hoan hỷ. Và mỗi người như thấy Phật ở trước mình. Cái điều đó do thần lực của pháp bất cộng mà ra. 

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, chúng sanh tùy theo loại, mỗi người được hiểu. Đều bảo Thế Tôn đồng với tiếng nói của mình. Đây ắt là thần lực của pháp bất cộng

Đây là để tán thán pháp của Phật nói. Khi Phật nói pháp chỉ có một thứ tiếng, mà mỗi người mỗi loài, mỗi người nghe đều thấy Phật nói tiếng của mình. Bởi vậy cho nên đều kính ngưỡng, đều hiểu biết. Đó là do thần lực của pháp bất cộng. Mình bây giờ quí vị thấy mình nói tiếng mình với với dân của Việt Nam mình đó thì nghe hiểu. Nếu mình nói tiếng Việt Nam với một người Hoa, một người Nhật, một người Pháp, họ hiểu không? Như vậy thì tiếng mình chỉ có mình hiểu thôi. Còn qua một nước khác, người khác không hiểu. Còn hội của Phật mà chúng qui tụ lại đó, có bao nhiêu thứ người. Nào là người nè, nào là Trời nè, nào là Bồ Tát các nơi đến nè. Nào là Quỉ, Thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La... Đủ hết. Mà Ngài nói pháp thì ai cũng nghe như tiếng nói của mình. 

Bây giờ tôi nói gần, thí dụ như mình cùng một nước với nhau, giáp ranh mình với người Miên, mà người Miên nói mình nghe được không, nếu mình không học. Mình nói họ nghe được không? Nếu họ không học tiếng mình. Như vậy đó người ở cõi Trời với mình nói tiếng giống nhau không? Như vậy mà Phật nói pháp ra tất cả loài đều nghe tiếng của Phật như nói với mình vậy. Như vậy thì mấy chú mới thấy khỏi cần học sinh ngữ làm chi cho cực há. Tu thành Phật rồi nói một thứ tiếng rồi họ nghe đều thành tiếng của họ. Sướng hơn không, phải không? Chớ bây giờ nếu mà học hết các thứ tiếng để mà nói cho thiên hạ nghe đó thì bao nhiêu, một đời mình học hết chưa. Một đời học cũng chưa rồi nữa. Bây giờ mình chỉ tu thành Phật là mình nói một thứ tiếng, mà ai nghe tiếng mình nói là tiếng của họ đó, họ đều hiểu. Sướng biết bao nhiêu. Như vậy thì đi cái nào tắt hơn. Đó là cái chỗ rất là rõ ràng

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 
Chúng sanh mỗi mỗi tùy chỗ hiểu, 
Khắp được thọ hành và được lợi ích
Cái lợi này, đây là cái thần lực của pháp bất cộng

Như vậy Phật dùng một thứ tiếng thôi mà Ngài nói pháp ra thì mỗi loài đều hiểu, rồi đều được lợi ích. Thực hành được lợi ích thì đó cũng là do cái pháp thần lực của Phật pháp bất cộng. Do cái thần lực của pháp bất cộng mà ra. 

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 
Hoặc có sợ hãi, hoặc vui vẻ
Hoặc tâm nhàm lìa hoặc dứt nghi. 
Đây ắt thần lực pháp bất cộng

Tại sao vậy? Phật nói có một pháp thôi. Một thứ tiếng thôi. Mà có người nghe thì sợ, có người nghe thì vui mừng, có người nghe thì sanh chán, lìa chán, có người nghe thì lại dứt nghi. 

Bây giờ tôi thí dụ như vầy. Thí dụ như Phật nói câu, nói rằng ai làm thập ác thì phải đọa địa ngục, ai tu thập thiện được sanh lên lên cõi trời. Như vậy người nào mà làm thập ác nghe nói vậy thì sao? Đâm ra hoảng sợ. Còn người đã tu thập thiện, nghe nói vậy thì sao? Vui mừng. Rồi còn người hồi đó giờ họ cũng có làm lành. Tức là chán lìa. Còn ngưòi mà hồi đó giờ, họ thấy người này làm lành, người kia làm ác, mà họ không biết rồi kết quả ra sao? Bây giờ nghe vậy, thì hết nghi phải không? Như vậy chỉ một câu nói đó mà có kẻ thì sợ, có kẻ thì mừng, có kẻ thì chán, có kẻ thì hết nghi. Như vậy để thấy rõ cái ý nghĩa đó mà được cũng do thần lực của pháp bất cộng. Bây giờ Ngài kính lễ.

Kính lễ mười phương thập lực đại tinh tấn
Kính lễ đã được vô sở quí. 
Kính lễ trụ nơi pháp bất cộng
Kính lễ tất cả đại đạo sư

Bây giờ giảng từng câu cho rõ. Nói rằng kính lễ Phật thập lực đại tinh tấn. Đó là Phật đó, tức là con kính lễ Phật. Ngài là đấng đầy đủ thập lực và đầy đủ đại tinh tấn. Kính lễ đã được vô sở quí. Tức là Phật đã chứng được tứ vô sở quí. Kính lễ trụ nơi pháp bất cộng. Ngài được pháp bất cộng pháp đó. Rồi kính lễ nhất thiết đại đạo sư của tất cả. 

Kính lễ hay đoạn các kiết phược

Tức là Ngài là một người hay đoạn được tất cả những trói buộc ở trong ngũ dục hày là ở trong tam giới. Vì vậy mà con kính lễ Ngài. 

Kính lễ đã đến bờ kia. 

Tức là con kính lễ Ngài vì Ngài là người đã đến được bờ giác ngộ

Kính lễ hay độ các thế gian

Con kính lễ Ngài, vì Ngài là người độ được tất cả thế gian

Kính lễ hằng lìa đường sanh tử

Con kính lễ Ngài vì Ngài là người đã lìa được con đường sanh tử. Đó là phần kính lễ. Bây giờ. 

Thảy biết chúng sanh tướng qua lại. 

Khéo nơi các pháp được giải thoát

Không chấp thế gian như hoa sen

Thường khéo vì hạnh không tịch

Đây là bốn câu tán thán Phật. Nói rằng Ngài là người khéo biết được các tướng qua lại của chúng sinh. Chúng sinh qua lại trong ngũ đạo lục thú như thế nào, Ngài thấy biết hết. Rồi Ngài không dính mắc ở thế gian, giống cũng như hoa sen, nó ra khỏi bùn không còn một chút hôi hám của bùn. Ngài thường khéo vào được các hạnh không tịch. Không tịch là cái hạnh rỗng lặng. 

Đạt được các tướng khôngquái ngại
Tức là không có bị chướng ngại
Đảnh lễ như hư không vô sở y. 

Câu này hơi khó hiểu. Nói rằng Ngài là người đạt được pháp tướng. Thấu suốt không còn cái gì chướng, cái gì ngại nữa hết. Bây giờ con kính lễ Ngài như hư không, không chỗ y. Câu cuối này không còn lễ Phật với tính cách hình tướng nữa. Nếu hình tướng thì còn chỗ nương chỗ tựa. Mà đã như hư không, không chỗ y thì tức là không có hình tướng. Như vậy câu chót là đảnh lễ Phật nào. Phật vô y đó. Thường thường mình học trong Thiền, có câu gì đạo nhơn đó? Vô y đạo nhơn. Hay đạo nhơn vô y. vô y tức là không chỗ nương. Không chỗ nương tức là không tựa, không dựa vào cái gì hết. Mà không tựa là không có tướng phải không? Còn có chỗ nương, chỗ tựa là còn có hình tướng. Mà ở đây cuối cùng Ngài đảnh lễ chỗ không chỗ tựa, không có hình tướng đó, tức là đảnh lễ pháp thân

Như vậy tất cả những lời tán thán này là tán thán tam bảo. Rồi cuối cùngtán thán pháp thân. Mà pháp thân thì không phải chỉ có Phật mới có, mà nơi mọi người chúng ta au cũng có. Như vậy hai đoạn này mới có phần diễn tả hội của chư Bồ tát tập hợp nghe Phật nói pháp. Trong hội này chư Bồ tát mới tán thán công đức của Phật thôi. Chớ còn chưa nói gì đến phần giáo lý thâm sâu mà ông Duy Ma Cật đối đáp với các vị Tỳ Kheo. Hay là các vị La Hán, các vị Bồ tát

Khi ấy ông Trưởng giả Bảo Tích nói kệ này rồi bạch Phật rằng: 

Thế Tôn 500 ông Trưởng giả này đều đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Mong nghe cõi Phật thanh tịnh. Mong được nghe cõi Phật thanh tịnh. Cúi mong Thế Tôn nói cái hạnh cõi Phật thanh tịnh của các vị Bồ tát

Phật bảo: Lành thay! Bảo Tích, mới hay vì chư Bồ tát mà hỏi cái hạnh thanh tịnh của Như Lai. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói. 

Khi ấy Bồ tát và 500 ông Trưởng giả vâng lời Phật dạy lắng nghe. 

Đoạn này mở đầu chưa có gì cần nói. 

Phật bảo: Bảo Tích, những loài chúng sinh là cái cõi Phật của Bồ tát. Vì cớ sao Bồ tát tùy chỗ hóa độ chúng sinh mà nhận lấy cõi Phật. Vì cái chỗ điều phục chúng sinh mà nhận lấy cõi Phật. Vì chúng sinh tin dùng cõi Phật như thế nào mà vào được trí huệ Phật, mà nhận lấy cõi Phật. Tùy các chúng sinh nên dùng cõi Phật thế nào để khởi thiện căn. Ông Bảo Tích hay là gốc của Bồ tát mà nhận lấy cõi Phật. Vì cớ sao Bồ tát nhận lấy cõi Tịnh độ đó, đều vì làm lợi ích cho chúng sinh. Ví như có người muốn ở trong chỗ đất trống mà xây dựng nhà cửa hay là nhà cung. Tùy ý không trở ngại. Nếu ở chỗ hư không thì trọn không thể xây dựng được. Bồ tát cũng như thế vì thành tựu chúng sinh cho nên nguyện nhận lấy cõi Phật

Nguyện nhận lấy cõi Phật, không phải là cái nguyện suông. Đây là đoạn mà chúng ta phải chú ý. Đức Phật mới giải thích cho Ngài Bảo Tích và các vị Trưởng giả biết rằng các loài chúng sinhcõi tịnh độ của Bồ tát. Tại sao vậy? Bởi vì Bồ tát mà nhận lấy cõi Phật thanh tịnh là không phải vì mình thụ hưởng mà nhận lấy cõi đó. Mà nhận lấy cõi đó là vì làm lợi ích chúng sinh. Rồi tùy chúng sinh được giáo hóa hoặc là vì điều phục những chúng sinh đó mà nhận lấy các cõi Phật. Chúng sinnh thích những gì, những cõi nước. Như thế nào để họ tu hành, đạt đến trí tuệ Phật, thì các vị Bồ tát sẽ nhận lấy cõi Phật tương xứng như vậy để mà giáo hóa họ. Khiến cho họ phát căn lành tu hành tới cái quả Bồ tát hay quả Phật. Như vậy Bồ tát mà nhận lấy cõi tịnh độ đó đều là vì lợi ích cho chúng sinh, chớ không là vì riêng mình. 

Bây giờ tôi nói một thí dụ nhỏ thôi. Giả sử như chúng ta ở đây, có người họ cất chùa. Muốn cất chùa được trang trọng thì chỉ vì mình mà cất chùa. Như vậy cất chùa để tạo cảnh trí trang trọng. Như vậy đó có phải là Bồ tátchúng sinh không? Còn nếu bây giờ vì muốn có một chỗ trang nghiêm để giúp cho mọi người tu hành. Cảnh trang nghiêm đó là vì lợi ích cho nhiều người. Nhắm thẳng vì nhiều người mà làm. Thì cái đó là vì chúng sinh mà tạo cái cảnh tịnh độ. Như vậy tâm của Bồ tát là lúc nào cũng nhắm thẳng vào chúng sinh là cái tịnh độ của Bồ tát. Câu đó là câu thật là nghiêm trọng. Nghĩa là nếu Bồ tát làm mà ngoài cái ý muốn, ngoài sự giáo hóa chúng sinh thì đó không phải là Bồ tát rồi, phải không? 

Như vâỵ cõi Phật thanh tịnh của chư Bồ tátvì lợi ích chúng sinh mà lập. Vì lợi ích chúng sinh mà tạo. Chớ không phải vì mình thụ hưởng mà làm tạo. Đó là ý nghĩa rõ ràng. Bởi vậy, cho nên nói rằng việc làm của Bồ tát không phải là chuyện làm suông mà đều vì lợi ích của chúng sinh mà làm. Đó là để hiểu để thấy rằng tâm hạnh của Bồ tát làm cái gì cũng vì lợi ích cho chúng sinh, chớ không phải vì lợi ích cho bản thân, cho cá nhân mình. 

Cho nên chúng ta bây giờ cúng có khi chúng ta làm Phật sự mà có hai mặt. Có khi thì muốn có nhiều chúng, có đông chúng đặng cho uy tín mình lớn. Như vaaạy là vì chúng sinh hay vì mình. Còn có khi trải thân mình mà lo cho chúng sinh, chỉ cho mọi người được tu, được học không, mà không nghĩ tới địa vị danh vọng gì cho mình hết. Thì đó là vì cái gì. Như vậy cũng một ciệc làm mà nếu mục tiêu mình nhắm vì chúng sinh, đólà tâm hạnh của Bồ tát. Còn nếu mục tiêu mình nhắm vì mình đso thì tâm hạnh của chúng sinh, phải không? 

Bởi vậy cho nên mình lớn, tu rồi thì ai cũng có một trọng trách để làm lợi ích cho nhiều người. Thí dụ mấy chú sau này, ra có khi cũng làm Trụ trì, có khi cũng làm Viện chủ, đủ thứ hết vậy. Nếu mình làm để mà kêu gọi chúng cho đông để mình có chức tước, mình có uy tín thì đó không phải là Bồ tát. Còn nếu mình làm vì thương, muốn giúp cho mọi người trong khi bơ vơ không nơi tu học. Chỉ vì họ mà làm thì đó là tâm hạnh Bồ tát. Như vậy cùng một việc làm mà mình thấy rõ ai là Bồ tát tâm, ai không phải là Bồ tát tâm. 

Bây giờ tới đoạn kế Phật bảo

Bảo Tích nên biết trực tâmTịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật, những chúng sinh không có dối trá được sanh về cõi nước kia. 

Tức là cõi nước của Bồ tát. Như vậy ở đây đi thẳng cái trực tâmtịnh độ của Bồ tát. Chúng ta tu, quí vị thấy bao nhiêu người ở thế gian họ sống vì danh vì lợi, vì đủ thứ hết. Cho nên tâm họ chiều uốn để được những cái gì họ muốn được. Còn chúng ta đaay sống bằng các đơn giản. Không có nhà cửa, không có vợ con, không có nhu cầu gì quan trọng, thì chúng ta cần cái tâm quanh co chiều uốn không? Vậy mà thỉnh thoảng có không. Có quanh co chút chút không? Bởi vậy cho nên cái cửa vào đạo là trực tâm. Đây nói trực tâmTịnh độ của Bồ tát

Rồi như Lục Tổ nói làm sao? Với Lục Tổ thì trực tâmđạo tràng phải không? Như vậy chúng mới thấy Phật Tổ nhắc nhở chúgn ta bước vào đạo phải có cái tâm ngay thẳng, không có dối trá. Dối trá tức là chiều uốn. Hoặc để được lòng người này, được lòng người kia. Hoặc là để gạt gẫm người ta thì đó là tâm không ngay thẳng. 

Bởi Bồ tát cái nhân trực tâm mà được cõi tịnh độ thì những chúng sinh nòa muốn về với Bồ tát ở cõi đó thì phải làm sao? Thì cũng phải trực tâm. Tức là phải bỏ những dối trá thì mới được về bên kia phải không? Mình mới thấy rõ ràng cái nhân của Bồ tát. Như vậy, ai muốn được hưởng của quả của các Ngài đó thì cũng phải có cái nhân giống như vậy phải không? Đó là một điều không thể thiếu. 

Thâm tâmtịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật, những chúng sinh nào đầy đủ công đức được sanh về cõi nước kia. 

Như vậy trực tâm là cửa bước vào đạo. Thâm tâm là những công đức ở trong đạo. Tại sao nói thâm tâmcông đức ở trong đạo? Mình thường thường nói thâm tâm là cái tâm sâu, phải không? Sâu kín. Nhưng mà thực ra cái tâm sâu kín đó là cái tâm đã tạo nhân nhiều mầm, nhiều nhân tốt. Nhân lành nhân tốt tạo đầy đủ thì gọi đó là thâm tâm. Bởi vậy cho nên nói thâm tâmtịnh độ của Bồ tát. Những người nào muốn sanh về cõi tịnh độ của Bồ tát đó thì phải làm sao? Phải có đầy đủ những công đức. Cho nên nói rằng khi Bồ tát thành Phật rồi thì chúng sanh nào đầy đủ những công đức thì được sanh về đó. 

Như vậy trực tâm là cái cửa, mà thâm tâm là cái dụng trong khi vào đạo rồi. 

Bồ đề tâmtịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật thì những chúng sinh nào mà phát tâm đại thừa thì được sanh vào cõi nước đó. 

Như vậy ba cái tâm này quí vị thấy nó hết sứcthâm thúy. Trực tâm là cửa. Thâm tâmcông dụng. Bồ đề tâm tức là giác. Như vậy nghĩa là Phật, người tu muốn thành Phật thì cái nhân ban đầutrực tâm. Rồi kế đó là thâm tâm. Rồi sau cùng là giác ngộ

Bởi vậy cho nên những người nào phát tâm đại thừa thì mới được sanh về cõi kia. Phát tâm đại thừa tức là phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác đó, phải không? Bởi vì cõi Phật do nhân giác ngộ mà thành cõi thanh tịnh. Bây giờ mình muốn về đó mà mình thiếu giác ngộ thì làm sao? Cho nên những chúng sinh phát tâm đại thừaphát tâm cầu cái quả vô thượng chánh đẳng chánh giác thì mới được sanh về đó. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27193)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21787)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22256)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23632)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20460)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20066)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24793)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24011)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26555)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21366)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23247)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38177)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18816)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23199)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23904)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22835)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22944)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29607)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18732)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15857)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19706)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20178)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19968)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22983)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34202)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39294)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20128)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18878)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24094)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22924)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21038)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26880)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23354)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24700)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30055)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20243)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20433)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23925)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant