Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 12

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8253)
Phần 12


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 12

Phật bảo Thiện Đức, con ông Trưởng giải: 

( Ông đi đến chỗ ông Duy Ma Cật để thăm bệnh. 

Ông Thiện Đức bạch Phật rằng: 

( Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa con tự ở trong nhà ba con mà lập hội đại thí cúng dường tất cả vị Sa môn, Bà la môn và những người ngoại đạo, bần cùng, hạ tiện, cô độc, người ăn xin, đầy đủ 7 ngày. Khi ấy ông Duy Ma Cật đến trong nhà bảo con rằng: 

( Này con ông Trưởng giả, phàm làm đại thí hội thì không phải là việc như ông đã làm. Phải làm cái hội pháp thí, đâu có dùng hội tài thí làm gì. 

Con mới nói: 

( Này cư sĩ, thế nào là là hội pháp thí? 

Ông mới đáp: 

( Hội pháp thí là không trước không sau. Đồng thời cúng dường tất cả chúng sanh. Ấy gọi là hội pháp thí

Con hỏi rằng: 

( Làm thế nào? 

Ông ấy bảo: 

( Do Bồ tátkhởi tâm từ. Do cứu chúng sanhkhởi tâm đại bi. Do gìn giữ chánh phápkhởi tâm hỷ. Do nhiếp trí tuệ mà hành tâm xả. 

Như vậy bốn tâmm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Sở dĩtâm từ là nơi tâm Bồ đề mà khởi lòng từ. Sở dĩ có tâm Bo vì cứu chúng sanhkhởi tâm bi. Sở dĩtâm Hỷgìn giữ chánh pháp nên có tâm hỷ. Sở dĩ có tâm xả vì mình nhiếp được trí tuệ nên có tâm xả. 

Như vậy ai mà xả được là người có trí tuệ. Còn ai mà hỷ được là do nhiếp teì được chánh pháp. Ai có tâm bi là vì muốn cứu chúng sanh. Sai khởi tâm từ vì thấy Bồ đề là giác, quí trọng, cho nên mình muốn đem cái quí trọng an vui cho người, là có tâm từ. Đó là bốn pháp Từ, Bi, Hỷ, Xả rồi. Bây giờ tới gì nữa

Do nhiếp xan tham cho nên khởi Bố thí. Do giáo hóa phạm giới cho nên khởi nhẫn nhục. Do lìa tướng thân tâm cho nên khởi Tinh Tấn. Do tướng Bồ đề cho nên khởi Thiền Ba La Mật. Do Nhất Thiết Trí cho nên khởi Bát Nhã Ba La Mật

Như vậy là Lục Độ. trước là Tứ Vô Lượng Tâm. Đây là Lục Độ. Lục Độ thì mỗi độ đều có căn do. Vì nhiếp kẻ xan tham cho nên mới tu bố thí. Vì bố thí kẻ phạm gới nên mình mới tu trì giới... Như vậy mỗi pháp của lục độ đều trị một bệnh của chúng sanh

Do giáo hóa chúng sanh mà khởi cái không. Do chẳng xả pháp hữu vi mà khởi vô tướng. Do thị hiện thọ sanh mà khởi vô tác 

Đây là không. Vô táctam giải thoát môn đó. Sở dĩtam giải thoát môn là vì mới khởi ra. Rồi do xả pháp hữu vi cho nên mới vô tướng. Do thị hiện độ sanh nên mới khởi vô tác. Như vậy ba cái: Không, vô tướng, vô tác. Hay không, vô tướng, vô nguyện đều là có lý do mà khởi. 

Do hộ trì chánh pháp mà khởi sức phương tiện. Do độ chúng sanh mà khởi Tứ Nhiếp Pháp. Do kính sự (tức là sự kính thờ) tất cả nên khởi trừ pháp mạn. Đối với thân, mạng, tài ba cái đó mà khởi ba pháp kiên cố. Ở trong lục niệm mà khởi pháp Tứ niêmj. Ở trong lục hòa kỉnh mà khởi tâm chánh trực

Như vậy đoạn này nói những pháp tu. Đầu tiên là vì trì chánh pháp khởi lục phương tiện. Dùng phương tiện đó là bỏa hộ chánh pháp. Rồi vì độ chúng sanh mà khởi Tứ Nhiếp Pháp. Phương tiệnTứ Nhiếp Pháp. Rồi do kính thờ tất cả nên mới trừ pháp mạn (tức là ngã mạn đó). Mạn này nói chung là ngã mạn, rồi Tăng thượng mạn... Đủ trong đó hết. Cho nên nói chữ mạn là đủ trong mấy thứ mạn. 

Đối với thân, mạng, tài. Thân mình nè, mạng sống của mình, tiền của của mình mà khởi ba pháp kiên cố. Quí vị biết ba pháp kiên cố đó là ba pháp gì không? Một là pháp thân. Hai là huệ mạng. Ba là công đức, pháp tài. Gọi là ba pháp kiên cố đó. Thay vì mình cũng ba pháp là thân, mạng, tài. Thân này thì vô thươngf. Mạng này là tạm bợ. Tài sảnvô thường, phải không? Như vâỵ ba cái là tạm bợ vô thường. Đổi lại ba pháp kiên cốpháp thân, là bất sanh bất diệt. Trí tuệ là mạng, thì mạng đó không có bị sinh diệt. Rồi tài là công đức pháp tài. Ba cái đó là ba pháp kiên cố đó. 

Ở trong lục niệm mà khởi niệm tư pháp, khởi pháp tư niệm. Lục niệm, quí vị biết lục niệm là cái gì không? Một là niệm Phật. Hai là niệm Pháp. Ba là niệm Tăng. Bốn là niệm Thiên. Năm là niệm giới. Sáu là niệm thí, đó là lục niệm, ở trong lục niệm. Như vâỵ trong lục niệm đó khởi ra pháp tư niệm. Đó là để chỉ cho trong những pháp của Phật mà mình có khởi pháp riêng. 

Ở trong lục hòa kỉnh thì dư biết phải không? Khởi tâm chánh trực. Hiện tại mà mình trừ dẹp hoặc tăng trưởng những pháp tu của mình. 

Do chánh hành thiện pháp mà khởi tịnh mạng. Do tâm thanh tịnh hoan hỷ mà khởi gần bậc hiền thánh. Do chẳng có ghét người ác mà khởi tâm điều phục. Do pháp xuất gia mà khởi thâm tâm. Do như nói mà thực hành cho nên khởi đa văn. Do không thấy pháp vô tránh mà khởi ở chỗ vắng vẻ. Do thú hướng Phật huệ mà khởi ở chỗ yên tịnh. Do giải các trói buộc cho chúng sanh, mà khởi chỗ tu hành. Do đầy đủ các tướng hảotrang nghiêm cõi Phật thanh tịnh mà khởi nghiệp phước đức

Như vậy đay là những lý do để nói lên công hạnh tu của mình. trước hết vì các chánh hạnh, thiện pháp. Tức là mình tu hành đúng như pháp lành của Phật dạy cho nên mình tịnh mạng. Tịnh mạng tức là mạng sống thanh tịnh. Thay vì tịnh mạng thì ngược lại là tà mạng. Tà mạng thì trong kinh đã nói rõ rồi. 

tịnh tâm hoan hỷ, tức là tâm thanh tịnh vui vẻ, cho nên khởi thân cận hiền thánh. Mình muốn tâm được thanh tịnh, mình muốn được sự hoan hỷ thì gần bậc hiền thánh thì tâm dễ thanh tịnh, tâm dễ hoan hỷ

Vì không ghét người ác nên khởi tâm điều phục. Khởi cái điều phục tâm. Quí vị thấy người dễ thương mà ít thương. Người ác ghét mà không ghét đó dễ không? Dễ hay khó? Sao mà khó. Họ đáng ghét mình đừng ghét họ thì thôi, phải không? Như vậy vì chẳng ghét người ác mà khởi cái điều phục tâm. Bởi vì nếu không điều phục, thấy người ác thì sao? Ghét. Cho nên muốn đừng ghét người ác, khéo điều phục tâm mình đừng cho nó có những cái ganh ghét hay bực bội 

Do pháp xuất gia mà khởi thâm tâm. Thâm tâm bữa hổm nói đó. Thâm tâm là sao? Trước hết là trực tâm hay là thâm tâm. Trực tâm rồi mới tới thâm tâm. Thâm tâm tức là hành những pháp của Phật. Gọi nó là thâm tâm. Như vậy là do mình muốn xuất gia cho nên phải hành những pháp Phật dạy luôn luôn không quên. 

Do như nói mà hành khởi đa văn. Điều này quí vị thấy dễ hiểu không? Chúng ta có cái bệnh học nhiều mà quên tu, phải không? Còn có người ham tu mà không chịu học. Đó đều là hai cái cực đoạn hết. Ở đây vì mình muốn nghe nói. Nói được là làm được. Cho nên mới học nhiều. Mình học nhiều là vì mình học tới đâu mình tu tới đó. Chớ không phải học để mà nói. Cho nên do mình muốn như nói mà hành thì phải đa văn. Có nghe rồi mình mới hiểu. Hiểu rồi mình mới hành. Nói được thì hành được. Cái học đó mới đúng là cái học của đạo. Chonên phải do như nói mà hành mới khởi đa văn. Do pháp vô tránh mà khởi ở chỗ vắng vẻ. Vô tránh là không cãi. Vì mình không muốn cãi với thiên hạ cho nên ở chỗ vắng vẻ. 

Vì muốn thú hươngs về Phật huệ nên khởi ra yên tọa. Ngồi thiền đó. Ngồi thiền là hướng về Phật huệ. Trí huệ của Phật. Không cho những niệm thế gian chen lấn. Cho nên mình ngồi yên cho trí huệ Phật phát hiện. 

Vì cởi những trói buộc của chúng sanh cho nên khởi tu hành. như vậy minh tu hành cốt là để cỏi những trói buộc cho chúng sanh. Chớ không phải là tu cho mình. 

Do muốn cho đầy đủ các tướng tốt và trang nghiêm cõi Phật cho nên mình mới tu những nghiệp phước đức. Những nghiệp phước đức, những điều lành, điều tốt mình làm cho người thì đó gọi là nghiệp phước đức. Làm những điều lành điều tốt đó có hai ý nghĩa. Yï nghĩa thứ nhất là trang nghiêm 32 tướng tốt cho mình. Ý nghíathư hai là trang nghiêm cõi thanh tịnh của Phật. Phật đó là Phật của mình chứ không phải Phật của ai. Mai kia mình thành Phật có 32 tướng tốt rồi có cõi thanh tịnh luôn phải không? Chớ lỡ thành Phật có 32 tướng tốt mà ở trong nhà tranh, chung quanh hôi hám quá, chắc không được phải không? Cho nên tướng tốt, đủ tướng tồi thì phải có cõi thanh tịnh theo đó. Vì vậy làm những công đức đó là để trang nghiêm cho thân thanh tịnh, cõi Phật thanh tịnh. Vậy quí vị có chán làm phước đức không? Nếu chán làm phước đứcchán đời sau mình đẹp. Chán chỗ ở mình trang nghiêm. Vậy quí cị muón sau thân đẹp và chỗ ở trang nghiêm thì đối với phước đức làm sao? Làm không có biét mỏi mệt. Như vậy thì khả dĩ. Chớ còn bây giờ cứ thấy chuyện gì, làm chuyện gì tốt thì xô cho người ta làm. Rồi mai mốt lỡ sinh ra xấu quá đi thì chừng đó tủi thân, tủi phận. Chừng đó không biết than thở với ai. 

Vì biết tất cả tâm niệm chúng sanh như, nên nói những pháp gì thì liền khởi nghiệp trí 

Vì mình muốn cho mình biết được tâm niệm chúng sanh. Biết nên nói pháp gì cho họ nghe. Vì vậy mà mình khởi cái nghiệp trí

Vì biết tất cả pháp không thủ, không xả để vào môn nhất tướng mà không khởi ra nghiệp huệ. 

Đây chia ra nghiệp trí, nghiệp huệ. 

Vì đoạn tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả pháp bất thiện mà khởi ra tất cả nghiệp thiện. Do được nhất thiết trí huệ, nhất thiết thiện pháp, khởi tất cả các pháp trợ Phật đạo

Như vậy để thấy rằng tất cả vị Bồ táthành đạo thì chúng ta thấy rõ ràng. Đây là đoạn chót nói rằng vì muốn biết tất cả tâm chúng sanh để nên nói pháp gì độ họ thì mình nói. Bởi vậy mình mới tu nghiệp trí, để tìm hiểu, để tu hành, để thấu suốt được những gì Phật dạy. Biết được tâm niệm của họ để mình giáo hóa họ. Biết tất cả pháp không thủ, không xả vào môn đệ nhất tướng. Đó là mình khởi ra được gì? Tuệ rồi tới sau chót là đoạn tất cả phiền não, tâts cả chướng ngại, tất cả pháp bất thiện mà khởi tất cả nghiệp thiện. Nhất thiết trí tuệ nè. Nhất thiết thiện pháp nè. Khởi tất cả pháp trợ đạo được như ý. Như vậy đây là cái hội thí mà ở trên Ngài Thiện Đức hỏi ông Duy Ma Cật

Như thế này thiện nam tử. Cái hôi pháp thí là như thế. Nếu Bồ Tát trụ nơi hội pháp thí nào là đại thí chủ, cũng là phước điền của tất cả thế gian

Ông tán thán nếu ai trụ được hội pháp thí này đó là đại thí chủ, đó là phước điền của tất cả thế gian

Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật khi nói pháp này thì trong chúng Bà La Môn 200 người đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Con khi ấy tâm được thanh tịnh, tán thán chưa từng có. Cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật. Liền cởi xâu chuỗi anh lạc giá trị trăm ngàn để dâng lên cho Ngài mà Ngài không nhận. Con nói rằng: 

( Này cư sĩ, mong Ngài nhận cho. Tùy ý mà Ngài dân, tùy ý mà Ngài cho. 

Ông Duy Ma cật mới nhận chuỗi anh lạc. Phân làm hai phần. Một phần thí cho người ăn mày thấp nhất ở trong hội. Còn một phần dâng cho đức Phật Nan Thắng. Tất cả chúng hội đều thấy cõi Phật sáng suốt. Cõi Phật Nan Thắng rất sáng suốt. Lại thấy xâu chuỗi anh lạc ở chỗ Phật kia nó biến thành bốn cây cột trụ của bảo đài (bốn trụ của bảo đài mình cũng không biết làm sao, mà nói có bốn trụ). Bốn phía trang nghiêm không có gì chướng ngại, không có gì che lấp được. 

Như vậy khi dâng xâu chuỗi lên Phật Nan Thắng thì toàn chúng trong hội nhìn thấy cõi Phật Nan Thắng rất là sáng suốt. Lại thấy phân nữa xâu chuỗi đó biến thành bốn cây cột trụ của đài báu. Rồi 4 phía đều đẹp đẽ, không gì che ngại hết. 

Khi đó ông Duy Ma Cật hiện thần biến rồi lại nói rằng: 

( Nếu vị thí chủtâm bình đẳng thí cho người ăn mày thấp nhất cũng như là tướng phước điền của Phật không có phân biệt, bình đẳng đại bi, không cầu quả báu, ấy gọi là đầy đủ pháp thí

Trong thành người ăn mày thấp nhất thấy được thần lực này rồi, nghe lời ní kia, liền phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông. 

Như vậy quý vị mới thấy hai cái lối thí. Ở trước ông Duy Ma Cật giảng trạch cho ông cư sĩ này biết (hay ông Thiện Đức biết), bố thí tài không bằng bố thí pháp, phải không? Cho nên ông không bằng hội pháp thí. rồi tới cuối cùng ông kết thúc, bố thí bình đẳng mới gọi là hội pháp thí

Bình đẳng là sao? Là dù cho Phật đầy đủ muôn lượng công đức, kẻ ăn mày thấp nhất trong hội đó. Trên là Phật, dước là kẻ ăn mày thấp nhất mà mình thấy như nhau. Một xâu chuỗi anh lạc chia hai. Bình đẳng không? Bồ Tát như vậy mà khong một niệm cầu phước cho mình. đó mới là hội pháp thí. Gọi là đầy đủ pháp thí. Pháp thí như vậy mới là đầy đủ. 

Như vậy chúng ta xét lại mình coi, hội pháp thí mà đầy đủ như trước đó thì mình khó làm phải không? Nhiều quá. Hội pháp thí sau chót này dễ quá! Giả sử bây giờ mình có một nải chuối sửa soạn đem cúng Phật. Có người ăn mày đói tới xin, mình cầm nải chuối đem đi cúng Phật, mình dám chia họ phân nữa không? Dám không? Bao nhiêu đó thì quí vị kiểm. Mình thấy họ đói thì mặc họ, chớ nhất định cúng Phật thôi phải không? Chứ không bao giờ nói đây anh đói quá, tôi chia anh nữa nải, còn nữa nải tôi cúng Phật. Còn nữa nải kia cũng vẫn cung kính chia cho họ chứ không phải khinh. Như cung kính đem dâng cho Phật vậy. làm bao nhiêu đó quí vị thấy dễ làm hay khó. Sao vậy? Đâu phải có chuỗi anh lạc mới khó. Chỉ cần một nải chuỗi thôi mà mình được cái tâm như vậy đó thì cũng gọi là hội pháp thí vậy. 

Nhưng chúng ta có cái khổ là kính thì kính, người nào thường thì khinh, phải không? Kính thì kính quá, khinh cũng khinh quá. Cho nên cái gì mình dành cho người mình cung kính đó, mà gặp kẻ mình khinh tới xin là mình bực bội liền, phải không? Chẵng những không cho mà còn rầy nữa chứ. Đừng có xin cái này tội chết à! Để cho tôi cũng Phật, phải không? Vì mình nghĩ cái đó là tội. Chứ thật ra mình được cái tâm bình đẳng mà cho như vậy. Ở đây Ngài Duy Ma Cật gọi là cụ túc pháp thí. Đó là đầy đủ pháp thí

Như vậy đoạn này chúng ta thấy có một là tài thí. tài thí là một cái hội bố thí tài sản 7 ngày. Đó là phước rồi. Nhưng phước đó là phước thế gian thôi, không bằng cái phước pháp thí. Cho nên Ngài mới dẫn bao nhiêu pháp để dạy ở đây. Đem những pháp đó ứng dụng bố thí cho người thì gọi đó là hội pháp thí. nhưng kết thúc lại, với một hình ảnh một xâu chuỗi, phân nữa cúng Phật, phân nữa cúng người hạ tiện. Bần cùng hạ tiện nhất trong đám đó. Đó mới là đầy đủ pháp thí. cuối cùng cái thí bình đẳng là trên hết. Vậy mình phải hiểu cả ba cả ba trường hợp thí. Đó là nói cho thấy rõ những câu chuyện. Bây giờ tới kết thúc

Như thế các vị Bồ Tát mỗi mỗi đều hướng về Phật để nói cái duyên xưa kia và khen ngợi ông Duy Ma Cật, lời nói ông Duy Ma Cật. Đều nói rằng chúng con không kham đến thăm bệnh ông ấy. 

Các vị Bồ tát cũng rút lui luôn. Trước thì đệ tử Thanh Văn rút lui không dám đi thăm. Bây giờ chỉ có ai cừ khôi mới dám đi thăm. 

Tới phẩm Văn Thù Vấn Cật. Tức là đến phiên Ngài Văn Thù đi hỏi thăm bệnh. 

Khi ấy Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi

( Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: 

( Bạch Thế Tôn! Bậc Thượng Nhân kia khó mà đối đáp được vì đã thâm đạt được thật tướng. Khéo nói pháp yếu. Biện tài không chướng ngại. Trí huệ cũng không ngại. Tất cả các phương thức của Bồ Tất thảy đều biết hết (phương thức tức là phương tiện. Hình thức gì của Bồ Tát Ngài cũng thông hết. Nên gọi là phương thức). Những bí tàng của chư PHật không chỗ nào mà chẳng nhập (vô bất đắc nhập đó, là thảy đều được nhập). Hàng phục các chúng ma và được thần thông du hí. Tối huệ phương tiện phương tiện kia đều đã được độ. Tuy nhiên con xin vâng thánh chỉ của Phật mà đến thăm bệnh ông. 

Trước khi nhận lời, tán thán ông Duy Ma Cật. Chúng ta thấy đối với thật tướng của các pháp thì ông đã thâm nhập. Ông lại khéo giảng pháp yếu cho người ta. Ôg có đủ biện tài không chướng ngại. Đủ trí tuệ không gì ngăn trở. Tất cả những phương thức của Bồ tát đều thông suốt kho bí mật của Phật ông cũng được vào. hàng phục tất cả ma. Được thần thông du hí. Được trí tuệ phương tiện... Như cậy ông đa ccược đầy đủ tát cả cái đó rồi thì thật là đáng nể đáng kính. Nhưng tuy vậy con xin vâng lời PHật con tới thăm. Ngài Văn Thù không thăm nữa thì biết ai thăm. Cho nên tới đây thì Văn Thù phải đi. 

Khi đó ở tỏng chúng hội các vị Bồ Tát và cac vị Đại đệ tử Thích Đề Hoàng Nhân tức là trời Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương đều khởi nghĩ thế này: Nay hai vị đại sĩVăn Thù Sư LợiDuy Ma Cật cùng luận bàn với nhau, ắt là nói cai diệu pháp

Liền khi ấy 8.000 vị Bồ Tát, 500 vị Thanh Văn, trăm ngàn vị thiên nhân đều mới đi theo. Khi ấy Ngài Văn Thù Sơ Lợi cùng các Bồ Tát, các vị Đại đệ tửchư Thiên nhân cung kính đi nhiễu để vào đại thành Tỳ Xá Ly

Giống hệt mình bây giờ phải không? Khi có hai vị nào có uy tín, có tiếng tắm tới đàm luận với nhau, quí vị có muốn đi nghe không? Rủ nhau đi nghe bửa nay luận bàn cái gì. Như vậy kể số người đi, rồi mình nhìn lại cái thất ông Duy Ma Cật. Thất ông cao lắm khoảng này là cùng. Khoảng này mình chưa bao nhiêu người? 200 người là cứng rồi. Thất ông bao nhiêu mà chứa 8.000 vị Bồ Tát. Rồi 500 vị Thanh Văn. Rồi trăm ngàn vị Thiên Nhân nữa, không biết bao nhiêu mà tính. Vậy đó mà đều dung hết. Đó là điều đặc biệt. Đó là cái giai đoạn đầu Ngài Văn Thù mới nhận lời đi thăm. Tới giai đoạn kế ông Duy Ma Cật ngồi trong thất mới suy nghĩ

Khi ấy ông Trưởng giả Duy Ma Cật tâm khởi nghĩ, nay Văn Thù Sư Lợi cùng với đại chúng đồng đến. Liền dùng thần lực làm rỗng không trong thất của ông. Dẹp hết đồ đạt (sở hữu tức là đồ đạt) và các thị giả. Chỉ để giường bệnh mà nằm. 

Chỗ này nói có cái lý. Lý rằng cái thất của ông cũng chỉ cho cái tâm của tất cả chúng sanh hay là của chư Bồ Tát. Nghĩa là tâm đó muốn đầy đủ tuệ giác thì phải dẹp tất cả. Dẹp hết thì mới được tuệ giác. Cũng như thất của ông muốn cho trống rỗng để cho dung chứa được bao nhiêu người đó, thì ông phải dẹp tất cả. Đó là cái lý sẽ nói ở đây. 

Ngài Văn Thù Sư Lợi đã vào trong cái nhà kia thấy thất trống rỗng không có vật gì, riêng chỉ có một cái giường nằm. Khi ấy ông Duy Ma Cật mới nói: 

( Lành thay! Văn Thù Sư Lợi! Cái tướng không đến mà đến. Cái tướng không thấy mà thấy (gặp nhau chào một một câu nghe tẻ lạnh làm sao). 

Ngài Văn Thù liền đáp: 

( Như thế cư sĩ! Nếu đến đã lại chẳng đếng. Nếu đi đã lại chẳng đi. Vì cớ sao? Đế đó không chỗ mà đến. Đi đó không có chỗ mà đi. Còn cái đã thấy lại không có chỗ để thấy. 

Như vậy mở màn hai ông nói chuyện nghe thấy trên trời xanh không, phải không? Ông này ông vào không có mừng rỡ gì hết mà chào bằng một câu rằng: Cái tướng chẳng đến mà đến. Cái tướng chẳng thấy mà thấy. Tại sao tướng chẳng thấy mà thấy. Tại sao tướng chẳng đến mà đến? Cái này học trong Trung Quán chắc dễ nhớ rồi. Bởi vì nó không có cái đến thật, không có cái đi thật. Không có đến thật, không có đi thật, nhưng có giả tướng đến giả tướng đi hay không? Như vậy không đến mà đến, đó là cái tướng thật thì không đến nhưng cái giả tướng thì có đến. Tướng thật không thấy giả tướng thì có thấy. Chính vì vậy mà Ngài Văn Thù mới đáp lại rằng, như thế đúng như cư sĩ nói. Nếu cái đến đã thì không lại không đến, đến rồi thì lại không đến. Còn nếu cái đi rồi thì lại không đi. Cái này trong kia đã nói rồi vì cớ sao? Vì người đến thì không có từ đâu đến. Người đi thì không đi về đâu. Như vậy cái đến và cái đi, đã thì không còn đến đã thì không còn đi. Đến rồi gọi là đã phải không? Vì vậy tìm cái đến cái đi thật không có. Bây giờ đã thấy lại không thấy. Cho nên nói rằng tướng thấy thì không thấy. 

Như vậy hai ông gặp nhau nói chuyện mừng rỡ hay nói cái gì. Chào hỏi bằng một cách, mở màn bằng một lối đến mà không thật đến. Đi không thật đi. Thấy không thật thấy. Như mình gặp chào anh mới đến, phải không? Chào anh mới đến là tướng đến. Nhưng mà đến thì không có thực đến. Nếu nói thật có đeén thì phàm phu rồi. Cho nên Bồ Tát thấy có đến mà không thật đến. Có đi mà không thật đi. Gặp nhau là thấy, mà thấy cũng không thật thấy. Đó là tinh thần của Bồ Tát. Ngang đây hai ông lý sự một chút rồi trở lại thực tế


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27193)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21787)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22256)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23633)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20460)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20066)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24793)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24011)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26555)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21366)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23247)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38177)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18816)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23199)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23904)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22835)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22944)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29607)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18733)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15857)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19706)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20178)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19968)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22983)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34202)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39294)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20129)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18878)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24094)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22924)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21038)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26880)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23354)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24700)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30055)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20243)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20433)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23925)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant