Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9518)
Phần 2


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 2

Đó là một cái đoạn quí vị thấy nó có hai phần: Sự và Lý. Sự là nói rằng mỗi ông Trưởng giả đem lọng báu của mình tới hiến dâng lên Phật. Mà đây tới 500 ông. Tức là có tới 500 cái lọng. Mỗi ông dâng cái lọng rồi thì do thần lực của Phật hóa hiện thành một cái thôi. 500 cái thành có một cái. Mà khi lọng báu thành một rồi thì trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, núi, sông, đất liền gì gì, đều thấy hiện trong đó hết, phải không? Cho tới hình ảnh cung trời, cũng các vị thần, cho tới 10 phương chư Phật nói pháp ở cõi nước xa mấy cũng hiện trong đó. Thì như vậy mới thấy, về phần sự thì bao nhiêu lọng báu nhỏ, Phật dùng thần lực biến thành cái lọng báu lớn. Thành lộng báu lớn rồi thì cả Tam thiên đại thiên thế giới này có cái gì đó đều hiện đủ ra hết. Đó là thấy đủ hết không thiếu. Chẵng những trong tam thiên đại thiên thế giới mà cả mười phương chư Phật ở các cõi nước khác xa nói pháp cho chúng sinh nghe. Nhìn trong đó cũng thấy luôn. Đó là nói về sự. 

Còn nói về lý, trong bản kinh này đặt trọng là Tâm. Như hồi nãy tôi nói tâm tịnh thì độ tịnh. Bao nhiêu cái lọng riêng của các ông Trưởng giả đó dụ cho tâm riêng. Mà khi tâm nó còn riêng tư thì lúc đó nó không có cái diệu dụng. Khi tâm nó không có cái diệu dụng. Khi tâm nó đã họp nhất rồi, lúc đó là thanh tịnh. Thanh tịnh thì mười phương cõi Phật cho tới trong thế giới này, có cái gì cũng hiện sáng ở trong đó hết. Cho nên nói tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Khi tâm mình thanh tịnh rồi, tất cả những cái gì ở đâu, ở xa mấy nó đều hiện vô đó. như đây là một bằng chứng cụ thể chớ không phải mình nói một cách xa vời. 

Thí dụ: Như đức Phật, Ngài tu dưới cội Bồ đề. Khi tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh rồi, Ngài nhìn ra, Ngài thấy xa như là 10 phương các cáu tí mù tí mú gì, Ngài cũng thấy hết. Cho nên. Cho nên Ngài mới nói hằng hà sa số thế giới đó. Thế giới nhiều như cát sông Hằng. Mà lúc đó có cái phương tiện nào để Ngài thấy không? Hay tâm Ngài tịnh rồi Ngài thấy. Vậy thì do tâm Ngài thanh tịnh cho nên Ngài thấy vô số thế giới bên ngoài. Cũng do tâm Ngài tịnh rồi, Ngài thấy những vi trùng tí ti. Như vậy rõ ràng tâm tịnh rồi thì tất cả đều hiện, thấy được hết. Đó là những đều thực chớ không phải tưởng tượng. Bởi vậy chúng ta tu không có mơ ước thần thông mà chỉ phải tiêu diệt những phiền não để cho tâm thanh tịnh. Tâm mình thanh tịnh thì mọi cảnh bên ngoài, những gì cần biết thì liền thấy, liền biết, không nghi ngờ nữa. Đó, bởi vậy chủ yếu của đạo phật là đi tới cái gốc tâm thanh tịnh thì mới thành cõi Phật thanh tịnh. Chớ mình mơ ước cõi Phật mà lúc đó mình không có tu, không có điều phục cái tâm mình để thanh tịnh, thì mơ ước chỉ là viễn vông. 

Khi ấy tất cả đại chúng xem thấy thần lực của Phật liền tán thán là điều chưa từng có. Chấp tay lễ Phật, chiêm ngưỡng dung nhan của Phật. Con mắt không có chớp. Ông Trưởng giả Bảo Tích

Con ông Trưởng giả thì nghe không có được chút nào hết. 

Trưởng giả Bảo Tích liền ở trước Phật dùng bài tụng để tán thán rằng: 

Đây là bài tụng của Ông. 

Con mắt rộng đẹp như hoa sen

Tịnh, Tu, Quảng ba chữ. Tịnh là Tập, Tu là sửa sang. Quảng là rộng. Nhưng mà mình nói con mắt đẹp đẽ là đủ rồi. 

Con mắt đẹp đẽ như hoa sen

Tâm trong sạch đã qua hết các thiền định

Đã lâu chứa chất nghiệp thanh tịnh

Xưng là vô lượng hay khen là vô lượng

Dẫn đường cho chúng để được yên lặng. 

Cho nên con kính lễ

Bốn câu này là giải thích cái gì? Là Ngài tán thán Phật. 

Câu thứ nhất: là tán thán về sắc thân của Phật nó đẹp đẽ. Nhưng mà trên đây là tán thán con mắt người khác. Bởi vì quí vị nhớ, người thông minh người ta nhìn cho mắt, họ thấy làm sao. Nó trong và sáng phải không? Con mắt trong sáng. Còn người ít thông minh thì nhìn con mắt thấy nó làm sao. Nó đục đục, nó lờ đờ, vậy thôi. Chớ nó không trong không sáng. Vì Phật là giác ngộ cho nên phần trí tuệbiểu lộ ở con mắt. Con mắt trong mà sáng. Đó ở đây tán thán con mắt Phật. Tức là tán thán về hình tướng

Rồi kế đó, câu thứ hai: là tán thán tâm của Ngài. Bởi vì tâm của Ngài nó đã hoàn toàn thanh tịnh, cho nên Ngai qua hết các thiền định. Tại sao tâm thanh tịnh lại qua các thiền định? Bây giờ chúng ta ngồi thiền để làm gì? Để hàng phục tâm. Và để gì nữa? An trụ tâm. Mà nếu tâm chúng ta đã hàng phục, đã an trụ rồi thì ngồi thiền làm chi nữa. Cho nên nói tâm Ngài đã thanh tịnh. Cho nên Ngài đã qua hết các thiền định. Đó là tán thán về tâm của Ngài. 

Đây câu thứ ba là tán thán cái nghiệp của Ngài. Ngài đã lâu rồi, Ngài tích lũy nghiệp thanh tịnh. Cái nghiệp là nghiệp thanh tịnh. Nó được vô lượng

Rồi câu thứ tư là tán thán về cái gì? Là giáo hóa. Dẫn đường chúng sinh đi đến chỗ tịch tịnh. Cho nên con đảnh lễ Ngài. 

Như vậy chỉ có bốn câu thôi mà chúng ta thấy tán thán đủ. Nào là tán thán thân, tán thán tâm, tán thán cái nghiệp và tán thán luôn cả sự giáo hóa, hướng dẫn. 

Rồi bốn câu kế: 

Đã thấy đại thánh dùng thần biến

Khắp hiện mười phương vô lượn cõi. 

Trong ấy chư Phật diễn nói pháp, 

Khi ấy tất cả phải thấy nghe. 

Chữ “ư thị” là khi ấy. Nhớ ư thị là khi ấy nha. Bốn câu này là tán thán thần lực của Phật. Khi Ngài dùng thần lực để họp các lọng thành một cái đó. Khi họp thành một cái rồi thì mười phương cõi nước vô lượng đều thể hiện chư Phật ở trong mười phương nói pháp... Tất cả đều nhìn thấy sẵn ở trong lọng hết. Khi ấy nhìn cái lọng đều thấy sẵn hết. đó là tán thán thần lực của Phật. 

Cái sức pháp lực của đấng pháp vương siêu vượt cả quần sanh

Thường dùng pháp thí, tài thí mà thí cho tất cả. 

Hay khéo phân biệt tướng của các pháp. 

Nơi nghĩa đệ nhất nó không động. 

Đến bốn câu này là tán thán Phật khéo nói pháp. Ngài là đấng pháp vương dùng sức pháp của Ngài, khéo nói để dẫn dắt hay là vượt hơn tất cả mọi chúng sinh. Ngài thường dùng cả tài thípháp thí để mà lợi ích cho mọi người, rồi Ngài lại khéo phân biệt tướng của các pháp. Tuy rằng khéo phân biệt tướng của các pháp mà đối với nghĩa đệ nhất không có động. 

Thường thường khi phân biệt thì động hay không động? Phân biệt thì động. Mà tại sao Ngài phân biệt pháp tướng mà nghĩa đệ nhất không động. Như bây giờ tôi nói, tôi ví dụ như cái nhà. Bây giờ tôi phân tích cái nhà. Cái nhà này nó không tự có, mà nó do gạch, do xi măng, do cát, do nước, rồi do tôn, do gỗ... do những cái đó họp lại thành cái nhà. Phân tích như vậy thì cái nhà không thực có. Bởi nhà không thực có nên cái nhà này tự tánh là không, phải không? Tôi phân tích như vậy đó, nó có động tới tự tánh không hay không? Đối với tự tánh khôngbị động không? Như vậy thì phân tích để cho người ta thấy rõ cái nhà không có tự tính. Không có tự tính đó là thấy tánh không. chớ không phải do phân tích đó mà động cái tánh không. Mà tánh không tức là đệ nhất nghĩa
Đã đối với các pháp được tự tại
Thế nên con đảnh lễ pháp vương này. 
Hai câu này Ngài tán thán là Phật đã được tự tại đối với các pháp. Cho nên Ngài đảnh lễ đấng pháp vương
Nói pháp chẳng có cũng chẳng không. 
Do nhân duyên cho nên các pháp sanh. 
Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả. 
mà nghiệp thiện ác cũng không mất. 

Câu này là khen ngợi Phật nói pháp. Cái pháp Phật nói nó không thuộc về có cũng không thuộc về không. Vì sao không thuộc có cũng không thuộc không. Vì do duyên cho nên các pháp sanh. Bởi nhân duyên các pháp sanh cho nên không phải thật có cũng không phải thật không. rồi đến vô ngã không tạo tác, không có thọ giả mà nghiệp thiện ác không mất. Đó, các pháp Phật nói nó khéo léo như vậy. 

Bốn câu này dễ hiểu không? Nói rằng do nhân duyên nên pháp chẳng phải có cũng chẳng phải không. Bây giờ dùng cái thí dụ nào xa xôi thì khó hiểu. Bây giờ tôi dùng cái thí dụ cụ thể nhất. Thí dụ như bàn tay của tôi, khi mình xòe 5 ngón ra, rồi nắm lại, thì gọi là gì? Là nắm tay. Nắm tay này tự có hay là do nhân duyên hợp. Như vậy nắm tay này có là do nhân duyên hợp, phải không? Trước khi năm ngón chưa co lại thì có nắm tay không? Bây giờ, nếu trong khi co lại, rồi buông ra thì nắm tay còn không? Như vậy trong khi năm ngón tay co thì tạm gọi là nắm tay. Nắm tay nguyên trước không, sau không. Trong khi co lại thì tạm có, phải không? Trước không, sau không. Đó thì nói nó như là không nhưng mà khi co lại tạm có thì nó không phải là không. Như vậy khi chúng ta co năm ngón lại rồi thì tạm gọi là nắm tay. Nhưng bây giờ nếu phân tích, ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp, ngón út, từng ngón thì kiếm nắm tay có không? Cũng không. Như vậy cái thể nắm tay nó là không. Nhân duyên hợp thì tạm có. Như vậy nói nắm tay là có hay là không? Như vậy nói có nói không đều không được. Mà nói nó phải sao? Chẳng phải có mà cũng chẳng phải không, phải không? Chẳng phải có, vì trước không có, sau không có. Duyên hợp phân tích ra cũng không thấy thật nắm tay. Không có tự thể nắm tay nên nói chẳng phải có, phải không. Nhưng khi duyên hợp thì tạm thấy có nắm tay, thì không phải không. 

Như vậy thì pháp Phật nói lý nhân duyên nó như vậy. Cái gì mà hiện có đây đều do nhân duyên. Do nhân duyên thì không phải thật có mà cũng không phải thật không. không phải thật có không phải thật không thì nó làm sao? Nó có như huyễn như hóa phải không. Như vậy thì cái có đó là hư dối không thật. Mà bây giờ mình có chịu nó không thật không? Chịu không? Đúng thấy được cái lý nhân duyên thì các pháp không thật. Mà thấy lý nhân duyên ngu hay là trí. Ngu hay trí? Là trí. Còn không thấy đúng lý nhân duyên đó là ngu phải không? Mà bây giờ các pháp do duyên hợp là không thật. Mà mình thấy thật là mình làm sao? Vậy mà mấy chú có chịu ngu đâu, phải không? Cứ tưởng mình thông minh lắm phải không? Bởi vì do nhân duyên hợp thì nó không phải thật có mà cũng không phải thật không. Bây giờ mình nói nó thật có, là đã ngu rồi phải không? Đó là không thấy được lý nhân duyên. Như vậy cho nên cái pháp của Phật nói nó rất là khó hiểu vì nó trái với cái ngu của phàm phu. Tại mình ngu nên mình khó hiểu phải không? Chớ nếu mình thông minh như các vị Bồ Tát nghe cái hiểu liền. Đó là cái thứ nhất. 

Đến cái khó thứ hai nữa nè! Cái pháp của Ngài nói là vô ngã. Tức là không có ta, không có người tạo tác, cũng không có người thọ nhận. Mà cái nghiệp thiện ác không mất đó, thì thường thường nói, bây giờ mình hay nói với nhau làm sao. Mình làm lành thì đời sau hưởng phước lành, phải không? Mình đời này làm lành thì đời sau thì đời sau hưởng phước lành. Như vậy đời này mình làm lành, đời sau hưởng phước lành thì dễ hiểu quá. Như vậy có mình đời này làm, rồi cũng có mình đời sau hưởng, phải không? Nhưng mà Phật nói mình không thật. Vô ngã là đâu có ta thật, không có ta thật thì làm đều lành rồi đời sau ai hưởng. Mà không có ta thật thì ai làm lành. Không có người làm cũng không có người hưởng mà tại sao cái nghiệp báo không mất. Không làm không hưởng tức là nghiệp báo mất tiêu chứ gì, phải không? Nói như vậy thì thật là khó hiểu. 

Bây giờ tôi thí dụ gần nhất. Thí dụ như bây giờ bản thân mình hiện tại đây, cái gì là mình. Mấy chú chỉ giùm tôi đi. Cái gì là ta? Cái ta bây giờ thật là khó mà chỉ. Ngay thân này chỉ cái gì là ta, chỉ không được. Nhưng mà lúc nào mình cũng nghĩ mình có cái ta làm chủ cái thân này. Nhưng bây giờ cái ta là cái gì. Mà thật là mình làm chủ thân này chưa. Đó là một cái. 

Bây giờ tôi hỏi mấy chú, tại sao mấy chú ăn? Tại mình muốn ăn hai tại bao tử trống nó đòi. Nếu mà nói tại mình muốn ăn đó thì có cái món nào mà mình thích nhất, rồi khi đó có ai cho mình ăn cơm no đầy, rồi người khác đem cái món mình thích nhất ra, mình có muốn ăn không? Nếu tại mình thì cái gì mình thích thì mình phải ăn. Nhưng bây giờ cái bao tử đầy rồi thì có thích thì thích, chớ nuốt không vô phải không? Như vậy thì mình muốn ăn hay bao tử muốn. Đó, như vậy mới thấy rõ ràng rằng cái bao tủ khi nó trống, nó đòi hỏi thì mình muốn ăn phải không? Như vậy mình muốn hay bao tử muốn? Nhưng mà lúc nào cũng nói mình hà. Tôi muốn ăn. Chớ sự thực ra, do bao tử trống. Như vậy chúng ta mới thấy khi chúng ta ăn, những thức ăn vô, chúng ta có muốn nó chế biến ra máu, ra gì gì đó, bằng cách nào không? Cứ dồn đại vô đó rồi tự nó làm sao nó làm cũng không biết nữa. 

Bây giờ tôi thí dụ. Thí dụ như bây giờ ở đây có ông trụ trì hay ông tri sự, ngoài kia có một số con nít nó vô nó xé rào. Nó vô bẻ “Điều” hay làm gì đó. Rồi ông tri sự thấy, tức là làm sao? Mới điều hành chúng ra đuổi nó ra phải không? Điều hành chúng chạy ra đuổi. Thấy nó xé rào của mình, mình đuổi nó ra. Như vậy mình là chủ, ai xâm phạm mình liền biết. Biết thì mình liền đuổi ra. 

Bây giờ đây cơ thể mình, mấy con vi trùng ở ngoài nó xâm phạm mình có hay không? Rồi mình có điều động các vi trùng của mình lại để diệt nó không? Không biết gì hết trơn. Ở trỏng nó làm sao làm, mình chớ có biết, phải không? Rồi ăn đồ ăn vô nó chế biến làm sao mình chớ có hay. Chớ phải chi ăn vô rồi mình ấn cái nút nào đó, để cho nó được tiết chất gì. Ấn cái nút gì để tiết chất gì, để tiêu hóa, rồi nó bổ dưỡng. Như vậy mình mới là chủ chớ, phải không? Cái này nó làm cái gì mình không biết hết. Rồi tới chừng nó ra thì hay vậy thôi. Rồi nó thành cái gì thì thành. Như vậy chủ ở chỗ nào chớ. Có chủ không? Mà không chủ thì làm sao có ta. Ngã là chú đó. 

Tuy nó không chủ như vậy mà nếu mấy chú cứ uống rượu hoài thì lâu nó có ghiền không? Ghiền không? Hút thuốc mãi thì có ghiền không. Tuy không chủ mà nghiệp không mất phải không? Không chủ mà nghiệp không mất. Nghĩa là làm cái nghiệp gì thì kết quả nó đi tới đó. 

Như vậy mới thấy rõ rằng không có ngã, không tạo tác, không thọ giả mà nghiệp không mất. Đó là một cái đặc biệt. Mình lâu nay mình si mê, mình cứ tưởng mình là chủ. Khi mình tưởng mình là chủ đó thì thực ra cái tưởng tượng thôi. Cái giả tưởng chớ không có thực. Vì thực ra con người mình, mình đâu biết rõ nó phải không? Mình chỉ biết khái quát nó vậy thôi. Rồi ở trong đó mọi sinh hoạt của nó mình đều không biết hết. Rồi nhu cầu nó đòi cái gì đó thì, thí dụ bây giờ nghe khô ở trỏng, khát nước thì mình cứ uống vô, cho ở trỏng có nước nôi cho mát mẻ, nó hoạt động. Rồi nhu cầu nó thiếu lương thực của cái bao tử thì dồn vô. Như vậy là đều do cái nhu cầu ở trỏng rồi mình làm theo cái cái nhu cầu đó. Chớ mình có chủ gì đâu. Bây giờ mấy chú thử làm chủ cái coi. Khi bao tử trống rỗng không thèm ăn. Không thèm ăn vô thử coi chịu nổi không? Rồi khi mình vô đầy rồi, nó muốn ra đừng thèm cho nó ra. Chịu nổi không? Thử làm thử coi. Mấy cái đó đâu làm chủ được phải không? Nghĩa là nó tới giai đoạn đó, nó đòi vô thì phải cho nó vô. Nó đòi ra phải cho nó ra. Chớ mình không làm chủ gì hết. Như vậy mới thấy rõ là không có chủ. Mà không có chủ tức là vô ngã chứ gì. Đó, đã vô ngã thì ai là tạo tác, ai là người thọ. Nhưng mà cái nghiệp gì mình tạo thì nó không mất. Cái thói quen nào mình tập thì nó thành công. Nó mắc kẹt ở đó. Như vậy mới thấy cái ý nghĩa của đạo Phật thật là khó. Vì nó tế nhị quá. Đó là bốn câu tán thán pháp của Phật nó rất là nhiệm mầu khó hiểu. Rồi kế. 

Mới ở cội Bồ đềthành Phật hay là mới ở cội Bồ đề dùng sứchàng phục chúng ma được diệt cam lồ giác thành đạo. 

Mấy câu này nghe rất là khó. 

Đã không tâm ý không thọ hành mà phải hàng phục các ngoại đạo

Nói rằng đức Phật khi Ngài tu ban đầu dưới cội Bồ đề, Ngài mới dùng sức để hàng phục ma quái. Như mình đọc trong sử hay nói rằng: Ngài hàng phục ma vương đó. rồi chữ “Đắc cam lồ giác diệt giác đạo thành”. Đắc cam lồ diệt là làm sao? Bởi vì trong Tứ Đế, Diệt đếNiết bàn. Diệt đế tức là vị cam lồ. Mà được Diệt đế rồi thì mới giác ngộ mới thành đạo. Như vậy thì mình mới thấy chỉ có mấy chữ thôi mà nói quá rộng. Bởi khi Ngài ngồi dưới cội Bồ đề dùng sức hàng phục ma quái. Khi hàng phục ma quái rồi, được cái Diệt. Diệt đó là được cái tâm thanh tịnh. Đó là cái vị cam lồ. Nhân đó Ngài mới giác ngộ mới thành đạo. Ngài đã không còn có cái tâm ý, không còn có cái thọ hành. Thọ hành tức là nghiệp đó. mà phải hàng phục được các ngoại đạo. Thường thường thì muốn hàng phục ai, muốn lý luận với ai thì trước mình phải làm sao. Trước mình phải suy nghĩ, phải không? Mình tìm lý này, lẽ kia để mà mình cố chinh phục họ. Đó là tâm ý sưe dúng trước nhưng mà với Phật thì cái ý nghiệp Ngài đã hết. Đã thanh tịnh tất cả. Nhưng tâm phiền não không còn. Như vậy lấy cái gì mà Ngài hàng phục ma quái hay là hàng phục ngoại đạo. Tuy rằng tâm ý không còn suy nghĩ phân biệt mà Ngài hàng phục được ngoại đạo. Đó là cái đặc biệt. Cho nên thường gọi là thời trí đó. Ngài không cần suy nghĩ trước. Nhưng mà vừa tới, người ta đề ra cái gì là Ngài thấy rõ vấn đề đó. Ngài liền bẻ họ. Chớ không phải như mình phải nằm suy nghĩ năm tháng, ba tháng gì. Rồi để mà lập lý luận, mà tới bàn với người ta. Không phải vậy. Bởi vậy cho nên nói cái đặc biệt của Ngài đó, là khi mà giác ngộ rồi thì tâm ý Ngài đã trong sạch. Nghiệp không còn. Như vậy mà Ngài khéo hay hàng phục hết thảy các ngoại đạo

Ba phen chuyển pháp luânđại thiên. Cái pháp luân kia xưa nay thường thanh tịnh. Trời, người được đạo này. 

Tức là được đạo do chuyển pháp luân đó, là chứng quả

Tam bảo nơi đây hiện thế gian. 

Hay là tam bảo khi ấy hiện thế gian. Đây là tán thán đức Phậtvườn Lộc Uyển. Ngài khéo chuyển pháp luân hay là tam chuyển pháp luân. Rồi những vị có mặt ở đó là người, là trời... Nhờ đó mà chứng được đạo. Từ đó mới đủ tam bảo hiện thế gian. Tại sao nói rằng chuyển pháp luânđại thiên. Thường thì chúng ta thấy Ngài chuyển pháp luânvườn Lộc uyển, với năm anh em Kiều Trần Như thôi phải không? Chớ đâu có chuyển khắp hết mà nói là cả đại thiên. Nhưng mà nếu đọc sử thì mấy chú thấy, khi Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển rồi thì cái tiếng đó vang lên, chư thiên ở các cõi trời đều lập lại cái đó phải không? Lập lại tiếng đó cho đến vang khắp cả cõi Trời, tới cõi Phạm Thiên. Bởi vậy cho nên nói rằng chuyển pháp luân cả đại thiên là vậy. Nghĩa là khi Phật nói, thuyết phápvườn Lộc Uyển, năm anh em ông Kiều Trần Như nghe pháp Tứ đế đó. Nghe cái đó rồi thì chư Thiên, Long Thần, Thổ Địa mới diễn tiếng đó lại. Rồi nó vang lên ở trên các cõi đều diễn tiếng đó mà nó trùm cả tới cõi Trời Phạm Thiên


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27189)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21780)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22244)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23622)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20436)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20060)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21954)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19015)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24788)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31002)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24008)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27781)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26547)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21361)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23243)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38165)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19999)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19059)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23187)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23903)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22834)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22941)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29602)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20653)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18729)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15854)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18870)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19700)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20172)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19965)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18140)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22979)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34201)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16440)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16940)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39281)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26113)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20119)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18866)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24080)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29163)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22913)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21025)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26874)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20691)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26275)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23348)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24698)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30054)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20421)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23923)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant