Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 14 An Lạc Hạnh

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6407)
Phẩm 14 An Lạc Hạnh

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 14

AN LẠC HẠNH

I. LƯỢC VĂN KINH

Bồ tát Văn Thù bạch Phật làm thế nào các vị Bồ tát có thể nói kinh Pháp Hoa trong đời ác trược. Đức Phật dạy nếu Bồ tát ở đời ác trược, muốn nói kinh này phải an trú trong bốn pháp :

1- Hành xứ : Bồ tát phải luôn ở trạng thái nhẫn nhục, nhu hòa, không nóng nảy cũng không sợ sệt, không để hoàn cảnh hay vật chi phối, nhìn thấy sự vật đúng như thật của sự vật.

2 - Thân cận xứ : Bồ tát không gần gũi vua quan hay những người quyền thế, người tu theo ngoại đạo, văn nhân, thi sĩ thế tục, những người hung ác… Bồ tát phải thấy các pháp đều KHÔNG, không có thực thể.

3 - An lạc hạnh : Sau khi Như Lai diệt độ muốn nói kinh Pháp Hoa ở đời mạt pháp phải trụ trong an lạc hạnh. Nghĩa là không nên ưa nói sự lỗi lầm của người và của kinh điển, không nên khinh rẻ, kiêu ngạo đối với các pháp sư, không nên nói tốt xấu hay dở của người khác.

Bồ tát muốn thuyết pháp phải giữ lòng an vui thanh tịnh, trừ bỏ ý tưởng ỷ lại, lười biếng, nói pháp để mở tâm trí chúng sanh mà không bao giờ mong cầu được cúng dường. Người nào thọ trì đọc tụng kinh này không nên chứa chấp oán hờn ganh tỵ, khinh khi người học Phật, không làm thối tâm người khác, không đem đạo pháp ra bàn luận chơi. Phải khởi lòng đại bi với tất cả chúng sanh, phải sanh lòng cung kính đối với Như Lai như cha lành. Đối với Bồ tát, phải cung kính cúng dường như bậc thầy.

4 - Phát đại bi tâm : Trong đời mạt pháp ai muốn thọ trì kinh này phải sanh tâm đại bi với hàng tại giaxuất gia. Đối với người chưa phải Bồ tát, cũng khởi tâm thương xót. Họ không nghe, không hiểu, không tin kinh này thật là mất lợi lành lớn. Đối với họ, ta nguyện ngày nào được Vô thượng đẳng giác sẽ dùng trí lực, phương tiện lực mà dẫn họ vào pháp lớn.

Khi Như Lai diệt độ, Bồ tát thành tựu được pháp an lạc thứ tư, sẽ thuyết được kinh Pháp Hoa không bao giờ sai lầm, được mọi người cung kính cúng dường, chư Thiên luôn theo hộ vệ, vì kinh này được chư Phật ba đời giữ gìn.

Trong vô lượng nước, tên kinh còn chưa được nghe, huống là được thọ trì đọc tụng. Ví như dẹp giặc xong, vua thưởng cho các binh tướng đất đai, y phục, xe ngựa, nhưng không bao giờ cho viên ngọc vô giá trên mão vua. Như Lai cũng vậy, Ngài là vua các pháp. Như Lai sai Hiền Thánh đánh ma vương. Khi thắng ma, Như Lai ban cho thiền định giải thoát Niết bàn, tạm nói là diệt độ để dìu dắt tâm họ, nhưng chưa hề nói cho họ kinh Pháp Hoa. Đến khi đội quân Hiền Thánh chiến thắng ma ngũ ấm, ma phiền não, ra khỏi ba cõi, mới ban cho kinh Pháp Hoa là kinh bậc nhất của Như Lai.

II. GIẢI THÍCH

Sau khi Phật Niết bàn, chúng sanh tâm tham lam ác độc, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư. Vì thế khó hoằng truyền kinh Pháp Hoa, nghĩa là khó tuyên bày chân lý tuyệt đối, khó có một mẫu người lý tưởng thể hiện trọn vẹn tài năng, đức hạnh, trí tuệ và những việc làm thánh thiện tiêu biểu cho Đức Phật trên cuộc đời. Lại thêm gặp ba hạng người tăng thượng mạn (đã nói trong phẩm 13) không có tri thức nắm giữ quyền thế lãnh đạo xã hội. Nếu hành giả Pháp Hoa mang chân lý đến cho họ, họ không chấp nhận và dễ dàng hại hành giả. Hành giả phải hoằng truyền chân lý bằng cách nào ?

Đối trước những chông gai nguy hiểm của đời mạt pháp, nhị vạn, bát vạn, bát thập vạn ức na do tha Bồ tát dũng mãnh phát nguyện truyền bá kinh Pháp Hoa. Theo các Ngài, cứ mạnh dạn nói lên sự thật, chết cũng được, miễn là chân lý thể hiện được trên cuộc đời.

Chúng ta rất cảm kích trước hạnh nguyện vì đạo không tiếc thân mạng của các Ngài. Tuy nhiên, đứng trên lập trường Phật thừa quan sát, việc hành đạo như vậy không đúng với đường hướng của Phật đi. Thật vậy, chúng ta trở lại tìm hiểu cách hành đạo của Phật, sẽ thấy rõ. Khi Ngài thành đạoBồ đề đạo tràng, trí tuệ siêu việt mà Ngài chứng đắc chỉ có chư Phật thấu hiểu được. Bấy giờ, nếu Phật đem hiểu biết cao tột này giảng nói cho cuộc đời, ai là người chấp nhận được.

Vì thế, từng bước Ngài giáo hóa nâng tri thức đệ tử lên. Pháp đầu tiên khi Ngài đến Lộc Uyển gặp năm anh em Kiều Trần Như giảng nói, nào phải là Phật thừa. Vì Phật biết rõ các vị này đang tu hạnh xuất thế, Ngài nói pháp lìa xa sanh tử. Trong phẩm Phương tiện, Phật cũng xác định nếu nói nhất Phật thừa, chúng sanh không tin sẽ đọa ba đường ác. Ngài thà vào Niết bàn, không nói pháp còn hơn.

Bồ tát Văn Thù thấy nguyện lực tràn đầy đạo tâm của những Bồ tát có con tim, nhưng không có trí tuệ, sẵn sàng để cho chúng sanh giết. Chúng sanh ngang bướng, hành giả ngang bướng hơn. Để cho chúng giết là hành giả đã phạm lỗi lầm, đưa chúng sanh vào địa ngục. Nếu hành giả không nói ngược lại chúng, chúng sẽ không phạm tội ngũ nghịch.

Bồ tát Văn Thù kinh ngạc trước hy sinh vô lý của những hành giả thiếu trí tuệ. Với trách nhiệm của một bậc đại trí, Ngài liền hỏi Phật phương cách hành đạo như thế nào để hành giả Pháp Hoa đời trược ác không bị tổn hoại thân mạng.

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi sau khi Phật diệt độ, ở đời mạt pháp muốn thọ trì Pháp Hoa, hoằng truyền kinh Pháp Hoa, phải trụ bốn pháp An lạc hạnh. Mạt phápthời đạitrí tuệ không được tôn trọng, chân lý không được đề cao giữ gìn, không có pháp luật, chỉ có sức mạnh quyền thế ngự trị. Nếu không trụ trong bốn pháp Phật dạy, hành giả không thể an lành giảng nói kinh Pháp Hoa.

Phật dạy sống an lạc, chết mới giải thoát. Có người thường hiểu lầm rằng khi sống chúng ta cố gắng chịu đựng mọi đau khổ, chết sẽ về thiên đường. Điều này hoàn toàn sai. Trong kinh Pháp Hoa Phật xác định hành giả phải lấy tâm niệm an lành, đời sống an lành làm chính, sống không an lành chết bảo đảm vào địa ngục.

Bốn an lạc hạnh được Phật đưa ra để giải tỏa những khó khăn bao vây hành giả và tạo thành đời sống an lành. Tuần tự tu tập bốn an lạc hạnh sẽ vượt được mọi khó khăn, không tổn giảm Bồ tát thân. Vì vậy trên bước đường tu tập, hành giả phải nương vào bốn pháp an lạc để thành tựu công đức, lạc ra ngoài sẽ thọ quả báo.

Bốn pháp an lạc có nhiều kiến giải khác nhau. Chúng ta nương theo bốn an lạc hạnh của Ngài Huệ Tư thiền sư đời Trần ở Trung Hoa và giáo sư Kubota người Nhật để hiểu nghĩa.

I- Pháp an lạc theo Ngài Huệ Tư thì có hai thứ an lạc hạnh : Vô vi hay vô tướng an lạc hạnhhữu tướng an lạc hạnh.

1/ Vô tướng an lạc hạnh là pháp lìa ngôn ngữ văn tự. Sống trong pháp này, hành giả truyền bá kinh Pháp Hoa bằng con người thứ hai, tức con người tâm linh. Trụ vào con người thứ hai này để truyền bá, hành giả luôn luôn an lạc, không có gì chi phối não loạn được.

2/ Hữu tướng an lạc hạnh gồm nhà Như Lai, áo Như Lai, tòa Như Laivô duyên đại từ bi tâm.

a/ Nhà Như Lai hay tâm từ bi. Người truyền bá kinh đạt được an lạc hạnh này là đại Bồ tát, không phải Bồ tát sơ phát tâm mới hành đạo, làm đối tượng cho thiên hạ chống phá nữa. Thực sự thì Bồ tát hành đạo ở đời ác sau, công đức và tư thế các Ngài sẽ làm chúng sanh cang cường khuất phục, không có khả năng nhiễu hại được. Các Ngài trụ trong cảnh giới Phật. Vì bản nguyện thương chúng sanhhiện thân tứ đại trên cõi đời ô trược, chịu mọi định luật chi phối của thế gian để gieo duyên với chúng sanh.

Nếu có chúng sanh được phước duyên gặp Bồ tát, dù đó là người ác, lần hồi cũng phát tâm Bồ đề. Như vua A Dục nhờ Ngài Mục Kiền Liên hóa độ, đã chuyển ý thức chống phá trở thành tùng phụchộ pháp đắc lực nhất.

Các đại Bồ tát gặp chống đối hiểm nguy không nản chí sờn lòng. Đối với các Ngài, sự hiện thân trên cõi Ta bà chỉ nhằm mục đích làm đối tượng cho chúng sanh kết duyên, dù là duyên ác hay duyên lành, vì vô duyên không thể nào độ được.

b/ Nhu hòa nhẫn nhục tâm. Với hành trang từ tâm đi vào cuộc đời, hành giả dễ dàng nhẫn chịu khổ nhục, nhường phần tốt cho người và gánh bớt đau khổ cho họ. Bồ tát mặc áo nhẫn nhục là những người mạnh khỏe và tài giỏi đồng hành với chúng sanh bệnh hoạn ngu dốt lại phải gồng gánh khối nghiệp nặng nề. Bồ tát hoàn toàn sạch nghiệp đi tay không, nên phát tâm kề vai gánh khổ cho chúng sanh, chịu khổ thế cho chúng sanh để dìu dắt chúng đi đến bảo sở.

c/ Ngồi trên KHÔNG tòa. Người truyền bá kinh từ tư tưởng Bát Nhã bước sang, quán các pháp đều không có thực tướng, từ điên đảo vọng tưởng mà sanh. Quán được pháp KHÔNG nên tâm xấu không sanh ra, không sợ sệt sân hận. Tâm luôn bình ổn trụ ở pháp giới, gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng không dao động. Quán thuần thục đến độ như Thánh Đề Bà bị người Bà la môn đâm đổ ruột vẫn thản nhiên. Dù mang phước lạc đến cho người và nhận lãnh khổ đau về mình, Bồ tát vẫn an trú pháp KHÔNG, bỏ những thứ này lại ở phía sau, không dính líu chút gì trong lòng.

d/ Hạnh thứ tư là vô duyên đại từ bi tâm. Đây là hạnh của các Bồ tát đã sử dụng được chơn tâm để truyền bá kinh Pháp Hoa. Các Ngài thông được với Phật và Bồ tát, thông được từ tâm của tất cả, từ cõi trời đến nhân gian. Các Ngài trở thành biểu tượng của Trời người, không ai động đến được. Trời, người, A tu la đều đến nghe pháp, chư Thiên đồng tử trở thành thị tùng theo hộ vệ. Nếu có người ác khởi niệm, họ vừa mở miệng, miệng liền câm bít, quả báo không lường được.

Trên đây là phần an lạc hạnh của Bồ tát. Ai tu hànhchứng nghiệm điều này tự biết, không thể dùng ngôn ngữ diễn tả dù là vô tướng hay hữu tướng an lạc. Đối với chúng sanh mê muội đời sau, bốn phần an lạc hạnh khó hiểu. Giáo sư Kubota bỏ phần vô tướng an lạc hạnh, chỉ giảng phần hữu tướng an lạc hạnh.

II- Bốn pháp an lạc theo Giáo sư Kubota

Theo Giáo sư Kubota an lạc không phải là tìm nơi an lành ngồi nghỉ, sống một cuộc đời nhàn hạ. Trái lại, an lạc có một tác dụng lớn cho người hành đạo. Phần hữu tướng an lạc hạnh gồm thân an lạc, khẩu an lạc, ý an lạcthệ nguyện an lạc hạnh, tức vô duyên đại từ bi tâm.

Trong bốn pháp an lạc, thệ nguyện an lạc là phần căn bản quan trọng. Vì ba pháp thân khẩu ý an lạc dễ kiểm soát hơn. Tuy nhiên, nếu bỏ ba pháp an lạc thân khẩu ý, hành giả sẽ bị hư. Thật vậy, hành giả mang ý chí lớn, muốn thành tựu Phật quả cứu độ chúng sanh trong lúc tài đức kém, hành đạo dễ bị gãy, làm chỉ chuốc họa vào thân và chết bị đọa.

Ngài Huệ Tư cũng dạy chúng ta kinh nghiệm tu chứng này. Trên bước đường hành đạo, Ngài bị thuốc độc và bỏ đói. Trong bốn pháp an lạc hạnh, Ngài không sử dụng hai pháp đầu, chỉ thọ hai pháp cuối. Sau Ngài dạy bốn pháp này phải giữ gìn đầy đủ, mất nó, hành giả không an thân và không thành tựu công đức.

1/ Thân khẩu ý an lạc. Ở thế giới Ta bà, trong thời mạt pháp cách Phật xa, ba nghiệp thân khẩu ý của chúng sanh thường bộc khởi và phát triển mạnh. Thân nghiệp của chúng sanh thường ưa sát hại, lấy cái chết của người khác làm vui cho mình hoặc thích trộm cắp hay say mê dâm dục.

Khẩu nghiệp của chúng sanh thường ưa nói lời độc ác hay nói dối, lấy dối trá làm vui đến mức trong xã hội không ai tin nhau được. Hoặc thích nói lời thêu dệt để cho người bực tức, căm thù nhau.

Ý nghiệp thì lòng tham không giới hạn chỉ muốn gom về cho mình. Khi truy cầu không được lại nổi giận. Quyền lợi làm mờ mắt, khiến họ chẳng còn nghĩ đến đạo nghĩa nhân tình. Do quá tham lam mà tạo thành khối óc ngu si.

Trong thời đại tồi tàn, tâm lượng chúng sanh đầy nghiệp ác như vậy, không thể nào đem giáo pháp cao thượng này truyền thông được. Đức Phật dạy chúng ta đổi ba nghiệp ác thân khẩu ý thành ba thiện nghiệp. Theo Ngài, thiện hay ác không có thực thể, vì nó tùy thuộc nơi ta. Tu hành theo Pháp Hoa, hành giả đổi mười nghiệp ác bằng cách triển khai ba nghiệp thân khẩu ý thành mười nghiệp lành. Có mười nghiệp lành này, hành giả đã chuyển Ta bà đau khổ thành thiên đường ở trần gian, không phải đợi chết mới vào thiên đường ở nơi nào khác. Thành tựu được như vậy mới thực sự là người truyền bá kinh Pháp Hoađời sau.

Việc này khó làm, nhưng các Bồ tát gắng sức nỗ lực thực hiện. Phật dạy rằng người không trụ pháp an lạc mà hành đạo, thường rớt vào ba nghiệp ác nói trên. Lúc đó ta khuyên người làm lành, chắc chắn sẽ không kết quả. Vì vậy, hành giả cần ý thức rằng khi ta chưa chuyển hóa chính ta mà đòi chuyển hóa người là điều vô ích, không thể được. Có thể ta đã bị người chuyển hóa hư rồi, mà cứ tưởng mình còn tốt. Điều này lại càng nguy hiểm hơn.

Phật dạy khi hành giả nhìn vật, vật in vào tâm, hành giả mới có vật. Ví dụ hành giả nhìn một người ác, ta giận họ và đem họ vào tâm. Từ khởi niệm sân hận thành ác rồi, hành giả phát ra lời nói ác và đối phương nghe mới khó chịu chống trả lại. Hành giả liền dùng bạo lực để đối phó thì lại tạo thêm thân ác. Bấy giờ hành giả đầy đủ ba nghiệp ác, mà không hề thấy mình ác, chỉ thấy người ác.

Trước những chướng duyên của môi trường xấu xa như vậy, Thanh văn không muốn tu ở thế giới Ta bà; vì gặp đối tượng xấu, mình sẽ biến thành xấu và bị đọa. Trái lại, ở cảnh giới Tây phương không có đối tượng ác, tâm ác của hành giả không có điều kiện phát sinh. Nơi đó toàn những bậc thượng thiện nhân khiến hành giả dễ sanh tâm cung kính.

Do đó, xây dựng Tịnh độTa bà là việc khó, phải có khả năng tu chứng mới không bị đồng hóa. Muốn được như vậy, hành giả cần trụ pháp an lạc. Nhờ an trú an lạc hạnh, hành giả sẽ có trăm ngàn muôn ức đà la ni. Nếu đối tượng của hành giả là ác, hành giả nhận cái ác của người và trao cái thiện cho người. Đây là việc nguy hiểm, hành giả cần phải sử dụng đà la ni môn để cải đổi tánh ác của người thành thiện. Hành giả nhận cái ác của người đem vào tâm, nếu không sử dụng đà la ni để tiêu hóa, những khó khăn buồn phiền đem trút vào hành giảchất chứa lâu ngày sẽ bộc phát mạnh, càng phiền hơn.

Nhờ đà la ni môn, Bồ tát rửa sạch cái ác, biến ác thành thiện và dùng thiện này truyền đến cho người. Vì vậy người ác sống gần Bồ tát lâu ngày trở thành thiện. Nói cách khác, hành giả Pháp Hoa phải có khả năng biến phiền não thành Bồ đề. Người ác thấy hành giả tự nhiên thay đổi trong tâm, sanh tâm cung kính và nói lời cung kính. Có như vậy, bi tâm hành giả mới không bị tổn hoại, chất lượng tu hành mới không mất.

Bồ tát hành đạo ví như Bồ đề thọ vương có khả năng hút phân, đất, nước. Phân đất nước là chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não. Bồ tát trong nhân gian lấy hết nghiệp và phiền não chúng sanh mà kết thành hoa quả. Chúng sanh cang cường hung bạo bao nhiêu, bi tâm hành giả lớn bấy nhiêu.

Thân khẩu ý an lạc là ba pháp căn bản phải giữ gìn cẩn mật. An trú ba pháp này, hành giả chưa làm lợi ích chúng sanh, chỉ mới giữ trạng thái thân tâm của chính mình cho bình thường. Hành giảan lạc, tâm trí mới sáng suốt, từ đó mới tiếp cận chân lý. Bằng không, hành giả làm bất cứ việc gì, chẳng khác người xây lâu đài trên cát. Vì vậy muốn tu đạo Vô thượng, trước nhất phải tu pháp an lạc. Dù gặp hoàn cảnh thế nào, cũng phải giữ thân khẩu ý bình thường, đừng cho biến chất. Và khởi điểm từ trạng thái bình thường này tùy nhu cầu cần thiết của chúng sanhhành giả tế độ họ. Nếu bị chúng sanh làm bất bình thường, làm thế nào dạy họ được.

*Thân an lạc. Muốn có thân an lạc, ta phải có cơm ăn, áo mặc, thuốc men, nhà ở hợp pháp để sống. Không mong cầu dư dả, chỉ có mức tối thiểu đủ sống. Vì thân này trôi dạt nay đây mai đó, sáng đói chiều no, bệnh hoạn liên miên, tâm sẽ khởi phiền não không tu được.

Tạo đời sống an lành, hành giả phải trở lại cuộc sống thực tế, không sống theo tham vọng. Hoàn cảnh hành giả thế nào, ta sắp xếp sống theo đó, giữ cho thân an lạc. Hành giả ăn để sống và sống để tu, không phải để tạo tội lỗi. Ngược lại chúng ta không theo lời Phật dạy, đánh mất an lành trên căn bản, mà cầu Phật gia bị an lành, chắc chắn Ngài không cứu chúng ta đâu.

Hạnh Bồ tát nguyện độ tất cả chúng sanh là điều mà ta nhất tâm theo đuổi. Tuy nhiên bản thân ta chưa lo được, đòi lo cho người, là chuyện không phù hợp với thực tế. Mọi người phải tròn tư cách trong xã hội để khỏi bị chê bai, dèm pha, đánh đập mới rảnh tay làm việc khác.

Giữa ta và người chung quanh phải có sự hòa hợp. Họ phải tán đồng việc làm của ta và ngược lại, ta cũng chấp nhận được việc của họ. Có một sự tương quan tương duyên hợp lý sẽ an lạc, còn mỗi người tự thủ phần mình không bao giờ an thân. Hành giả theo lộ trình của Bồ tát phải tạo điều kiện hòa hợp, mới tiến tu đạo nghiệp được.

Nếu một mình ta đầy đủ, nhưng người chung quanh thiếu thốn, họ sẽ gây khó khăn cho ta. Những người ăn trộm giết người, phần lớn cũng vì họ quá thiếu thốn. Vì vậy tu trong nhân gian, ngoài sự an lành về cuộc sống vật chất giàu có của chính bản thân, ta phải lo cho người chung quanh có đời sống đầy đủ, là việc tất yếu cần thiết. Điều này thể hiện rõ rệt qua việc làm của các Tổ sư từ Ấn Độ sang hành đạoViệt Nam. Đời sống các Ngài trầm mặc đẹp đẽảnh hưởng qua nhân gian, mỗi ngày thu tánh ác của nhân gianbiến thành thiện. Vì chúng sanh nghĩ đến vật chất nên các Ngài dùng vật chấtđối trị, nghĩa là tạo cho họ một đời sống vật chất sung túc. Các Ngài hiện thân trong các ngành nghề, xoa dịu khổ đau cho họ. Bồ tát đối diện với đời, tận dụng trí tuệ để xây dựng đời tốt đẹp hơn, tạo thành thiên đường ở ngay trên trần gian. Đó chính là Bồ tát thành tựu được an lạc của thân, khác với an lạc của Thanh văn.

Trong phần thân an lạc, nếu mở rộng, chúng ta nhận thấy Phật nhằm dạy hàng sơ tâm như chúng ta. Đạo đức còn kém, trí tuệ tài năng yếu ớt, người đời khó kính trọng ta. Về mọi phương diện, ta không hơn họ mà làm thầy họ. Điều này không thể chấp nhận được. Trên cuộc đời còn nhiều người hơn ta. Nếu mang hoài bão giáo hóa họ, ta liền chạm trán với hạng người này. Ta lại xếp họ vào hàng tục môn tăng thượng mạn, tiếm Thánh tăng thượng mạn v.v… Như trường hợp Lương Khoan được vua thời đó hết sức kính trọng và luôn tìm cách ám hại Ngài Nhật Liên.

Nếu nương theo phẩm 12 thấy Đề Bà Đạt Đa được thọ ký thành Phật, tôi thiết nghĩ Ngài Lương Khoan làm việc xấu ác này để Ngài Nhật Liên thể hiện trọn vẹn pháp tu của hành giả Pháp Hoa sau khi Phật Niết bàn. Vì nếu Lương Khoan là một người tệ ác tầm thường thật sự, thì không thể nào được nhiều người kính trọng. Có lẽ Ngài đóng vai nghịch hạnh để xiển dương kinh Pháp Hoa, làm đối tượng duyên khởi cho Nhật Liên thuyết pháp và dạy đồ chúng.

Ngài Nhật Liên dạy khi chưa có khả năng làm như các Bồ tát lớn, ta phải lùi xuống, giữ cho thân an lạc bằng cách không gần gũi mười hạng người hay phải cẩn thận lúc giao thiệp với họ.

Mười hạng người này chỉ cho những thành phần xấu trong xã hội. Các Bồ tát lớn, đạo lực cao, gặp hạng người nào cũng độ thoát được. Còn ta tầm thường đầy nghiệp chướng, người nhìn thấy không phát tâm và coi ta không ra gì. Ta chấp nhận sự tầm thường này ẩn nhẫn tu hành, miệt mài làm những việc trong tầm tay của mình để tạo trạng thái an lạc cho thân.

Bồ tát sơ tâm phải xét xem nên gần gũi người nào. Những người có quyền thế như vua, con vua, quan lớn, ba hạng người này có thể tốt hay xấu. Nếu thực họ là người tốt ra đời cùng thời với đức Phật để xây dựng thế giới an lành, hộ vệ người trì kinh Pháp Hoa. Nhưng nếu là vua chúa ác độc, họ thường dùng quyền lực để khống chế thiên hạ, không được dân thương.

Nếu ta thân cận họ, phục vụ cho quyền lực khống chế người dân và bảo vệ địa vị kẻ ác như vậy, ta sẽ trở thành tiếm Thánh tăng thượng mạn. Chúng ta phải cân nhắc xem lập trường của họ nhằm phục vụ cho nhân dân hay cho bản thân. Ngoài ra gần gũi những người quyền thế, ta khó tu. Vì họ sống với quyền thế thường có âm mưu thủ đoạn. Họ thành công ta được hưởng, thất bại đương nhiên ta bị tù tội.

Muốn thân an lạc, ta chỉ làm đúng bổn phận của người dân. Việc đến thăm, phục dịch, cầu thân họ, chúng ta tuyệt đối không nên. Tuy nhiên, khi những người này sa cơ thất thế, hoàn toàn bất lực và đau khổ cùng tột, họ tìm đến nhờ khai ngộ, ta sẵn sàng giúp đỡ. Vì xem họ như đối thủ là ta tự sát.

Hành giả Pháp Hoa không gần gũi vua, con vua hay quan lớn, tức không gần người có quyền thế. Điều này còn có ẩn ý dạy chúng ta muốn cầu giải thoát an lạc, đừng sống với tánh tham danh, hoặc đừng sanh ra ý thức chi phối người, cai trị người.

Hành giả không gần gũi người làm việc ác thích đâm nhau, đánh nhau, làm việc giết hại để mưu sống, vì họ là những người tâm trí không bình thường. Không tới với người làm ảo thuật, họ làm tinh thần ta tồi tệ thêm. Chỉ đến bậc minh triết để tu học.

Hành giả cũng không gần gũi đàn bà, nghĩa là bỏ những tánh làm chướng ngăn Thánh đạo tiềm ẩn ngay trong con người chúng ta. Không phải tránh người đàn bà thực bên ngoài. Vì trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy chúng ta tu hành chính yếu phải mài dũa, kiểm điểm tâm mình. Trên thực tế những tánh ác chướng ngăn Thánh đạo, chúng ta thường thấy có nhiều nơi người đàn bà. Nói chung, chúng ta không gần gũi những hạng người kể trên, không đòi hỏi bất cứ điều gì ở họ. Có đòi hỏi là đòi hỏi ở ta làm lợi ích cho người.

Hành giả thương người, giúp người, hy vọng mai kia dễ nhờ vả họ. Sự giúp đỡ như vậy phát xuất từ lòng tham, không phải là tình thương. Ngay như cha mẹ nuôi dưỡng con cái, không nhằm mục đích bắt nó nuôi lại khi ta già yếu. Trái lại, ta dồn hết tâm lực nuôi con nên người. Chúng ta tự sung sướng với việc làm này của mình. Và đứa con cũng cảm thấy mang nặng tình thương đối với cha mẹ.

Ngoài ra, muốn thân an lạc, hành giả luôn luôn ghi nhớ, giữ gìn tâm nhẫn nhục nhu hòa, tùy thuận với người một cách khéo léo. Với áo giáp nhu hòa nhẫn nhục, hành giả tự hạ thấp mình cho ngang hàng hay thấp hơn người, để giữ vững vị trí đứng của mình và lần hồi chuyển họ theo mình.

Hành giả Pháp Hoa đừng bao giờ nổi nóng với người. Phải bình tĩnh, không để cảnh vật bên ngoài chi phối tâm. Vì động tâm sẽ mất bình tĩnh, không còn sáng suốt, lúc đó sẽ bị họ quật ngã. Tuy sống hòa hợp với mọi người, hành giả vẫn không bị đồng hóa, đó là điều căn bản quan trọng. Sống chung với người ác, chống họ ta sẽ bị giết. Nhưng theo họ làm ác, ta sẽ bị đọa. Như Ngài Huệ Năng khéo tu pháp tùy thuận. Vì nghiệp duyên, Ngài sống chung với những người thợ săn hung dữ. Ngài cũng làm công việc săn bắn y như họ, nhưng không bao giờ bắn trúng, nên chúng bắt Ngài nấu cơm. Bên trong Ngài vẫn giữ được tánh Phật, bên ngoài hiện tướng gì cũng được. Hành giả tùy thuận nhưng có thái độ cương quyết, nhất định truyền bá kinh Pháp Hoa dưới mọi hình thức, đưa người tới bờ giác. Nhẫn nhục của Pháp Hoa làm chúng sanh phải khuất phục, không phải sợ mà nhẫn.

Trong đời mạt pháp, đa số người không đặt căn bản trên đạo đức. Vì vậy, hành giả phải trang bị những đức tánh nói trên để giữ cho thân an lạc.

Cơm ăn, áo mặc, thuốc men, nhà ở hợp pháp và những liên hệ chung quanh của hành giả tốt đẹp. Tất cả những việc này chỉ tạo sự an lành bên ngoài giúp hành giả tạm thời ổn định việc tu hành. Nếu hành giả dừng bước ở đây, thì muôn đời vẫn là chúng sanh.

Trên bước đường thực hiện pháp tu để được an thân, tinh thần Đại thừa triển khai thân của chúng ta thành ba thứ. 1/ Ngũ uẩn thân là thân vật chất tồn tại trên cuộc đời. 2/ Báo thân là thân phước đức trí tuệ hay nghiệp thân bên trong của từng người. 3/ Pháp thân là thể của sự vật.

Từ ngoài tuần tự đi sâu vào bên trong, chúng ta có ba tầng thân như vậy. Chúng ta phần nhiều thường muốn tránh bỏ ngũ uẩn thân, nhưng không chịu bỏ nghiệp. Đức Phật dạy nghiệp là nguyên nhân chính yếu tạo cho thân ngũ uẩn thành dễ thương hay dễ ghét. Còn ngũ uẩn thân vật chất của mọi người đều giống nhau.

Ngài Huệ Tư thiền sư tham thiền sử dụng nhất tâm tam quán, thấy được sai lầm tác hại của nghiệp đã làm cho Ngài thuyết pháp mà vẫn bị bỏ đói và bị thuốc độc. Qua kinh nghiệm tu chứng, Ngài dạy chúng ta rằng khi thiên hạ đánh chửi, khinh chê, sỉ vả là tấn công cái nghiệp của mình, không phải tấn công mình. Nhờ thiên hạ bắn phá, nghiệp ác rớt xuống, không còn vấn đề xảy đến với hành giả nữa.

Vì thế ngũ uẩn thân không quan trọng, nhưng quan trọng ở điểm hành giả phải điều chỉnh nghiệp bên trong. Điều chỉnh được nghiệp bên trong, hành giả đã điều chỉnh được hình rồi thì bóng bên ngoài là thân ngũ uẩn cũng tự đổi theo. Chính Ngài Huệ Tư sau khi tham thiền, xóa sạch nghiệp. Trở lại cuộc đời, chẳng những người đồng tu, mà cả vua chúa đều phải kính nể, phong Ngài chức Đại Nhạc thiền sư.

Đức Phật khuyên muốn thân an lạc đừng tạo thêm nghiệp. Đối với nghiệp quá khứ đã tạo, không tránh được. Cứ để cho thiên hạ phát hiện tấn công, nó sẽ tiêu tan theo gia công tu hành của chúng ta. Như trường hợp Vô Não tu theo Phật, nhưng ra đường vẫn bị đánh, vì tướng sát nghiệp còn.

Hành giả xóa nghiệp bằng cách lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của mình mà trụ nhẫn nhục địa. Chấp nhận sự gia hình của ba loại tăng thượng mạn, bằng lòng bất cứ điều gì giáng lên tâm hồn mình để trả nợ. Tôi tu suốt 40 năm trụ nhẫn lực, gia công tu hành để tạo phước lạc. Người ta càng tệ với tôi bao nhiêu, tôi càng đóng góp công quả bấy nhiêu, mới thành tựu kết quả như ngày nay. Điều cần thiết đối với chúng ta là khi gặp khó khăn phải phát triển niềm tin về Tam Bảo mạnh hơn. Sám hối nghiệp chướng, cầu chư Phật gia bị cho chúng ta đủ sức chịu đựng những gì trần gian đổ trút lên. Chúng ta đừng làm kẻ quịt nợ, muốn ăn mà không chịu trả, không thể được. Vì nghiệp theo ta như hình với bóng. Chúng ta nhất định trả nợ quá khứ và không tạo nghiệp tương lai, cuối cùng không còn là con nợ. Và khi có thừa của cải, thừa tri thức, việc tốt đẹp tất nhiên chào đón chúng ta.

Sau khi hành giả sắp xếp cuộc sống đơn giản nhất, để không tổn hoại sức lựcphá sản tinh thần, Phật dạy nên thân cận những nơi làm tăng trưởng tri thức mình. Theo lời Phật dạy, Bồ tát an trú pháp KHÔNG, nghĩa là sống với trí Bát Nhã. Vì trí Bát Nhã là chỗ an trú tốt nhất của chư Phật ba đời. Bồ tát thừa kế sự nghiệp của chư Phật, sử dụng trí Bát Nhã qua lăng kính thập nhị nhân duyên, thấu rõ nguyên nhân thúc đẩy việc thọ sanh trên cuộc đời, nguyên nhân cấu tạo của ngũ uẩn. Xa hơn, quan sát ngũ ấm thế gian, để biết vũ trụ là gì. Đó là pháp KHÔNG của Bồ tát tu. Chẳng phải như nhiều người lầm tưởng pháp KHÔNG là phủi sạch, bỏ mặc tất cả, sống buông trôi không để ý gì, lãng phí cả cuộc đời.

Nương pháp nhân duyên, biết tất cả vật từ KHÔNG thành CÓ và từ CÓ về KHÔNG, Bồ tát không bận tâm tới nó, không bị phiền hà bên ngoài quấy rầy. Khi Bồ tát quán nhân duyên chứng pháp Không, đạt trí Bát Nhã, Phật dạy từ trí Bát Nhã nhìn qua các pháp thấy nó như thật, nghĩa là thấy thật tướng các pháp. Bấy giờ sống đúng với pháp chân thật, thế giới Chân Không của Bồ tát sẽ biến thành diệu hữu.

Như vậy muốn an thân phải nương tựa pháp KHÔNG hay trí Bát Nhã và nương tựa thật tướng các pháp. Đây mới là chỗ nương tựa an toàn nhất cho Bồ tát làm đạo. Chư Phật đang sống trong trí Bát Nhã, đang trụ trong chân thật pháp. Hành giả nào đạt đến cảnh giới tu chứng này, sẽ thấy Phật vẫn hiện hữu trên cuộc đời.

An thân lập mạng trong trí Bát Nhã, sống với thật tướng pháp, Bồ tát trở lại cuộc đời, thấy rõ chúng sanh nghĩ gì, muốn gì, có khả năng làm gì, mới tùy yêu cầu chúng sanhgiáo hóa, thì làm sao họ chống đối Bồ tát được.

Bồ tát trải qua quá trình khởi đầu tu từ ngũ uẩn thân mang đầy nghiệp ác, lần sửa đổi nghiệp thân thành thân phước đức trí tuệ. Vì biết nghiệp có thiện ác, nhưng cả hai đều phát xuất từ một thể của sự vật “Thiện ác đôi bề nước một sông”. Bồ tát hành đạo mượn tướng sanh diệt, quan sát tu tập để đi đến pháp không sanh diệtbản thể sự vật thì tướng nghiệp tự thủ tiêu.

Chuyển đổi nghiệp thân đến độ cao nhất thành Pháp thân. Từ Pháp thân hiện thân lại cuộc đời với Báo thân phước đức trí tuệ giáo hóa chúng sanh, mới thực sự trụ thân an lạc hoàn toàn.

* Khẩu an lạc. Nương pháp thiền định, suy nghĩ lời Phật dạy, tạo được thân an lạc. Và từ thiền định, trở lại thực tế, nhìn đời bằng tâm tùy hỷ, tâm đại bi, nên thấy được mọi người đều dễ thương, không giống như cái thấy bằng tâm ác độc trước khi hành giả vào định. Lời nói của hành giả phát xuất từ lòng từ, trở thành hoàn toàn chân thật, biết kính trên nhường dưới, không còn ai tranh cãi với hành giả được.

Thân khẩu của hành giả an lạc, bằng lòng làm tất cả mọi việc trong tư thế xây dựng của mình. nhưng đừng cho rời vị trí, đừng để lòng bực bội. Vì bực bội sẽ phát ra lời nói ác. Đức Phật dạy hành giả Pháp Hoa không tranh chấp cãi vã hơn thua. Nếu còn lấy sở đắc của mình nói cho người khác, không phải là người truyền bá kinh. Trước kia, hành giả đứng ở lập trường của riêng mình mà phê phán người, thấy ai cũng dở, cũng đáng ghét. Và từ đó, khởi tâm sân hận kiêu mạn, nên giảng kinh thành bực bội khó chịu, khẩu không an lạc.

Nhưng nay từ định trở ra, hành giả nhìn thấy chúng sanh trong thời mạt pháp nghèo nàn, ngu dốt, bạn bè hung ác, xã hội tăm tối. Bản thân và môi trường của chúng sanh tệ ác như vậy, họ không thể nào giỏi, không thể nào sống an lạc, không thể hiểu và chấp nhận được pháp này, là lẽ tất yếu.

Quán sát thấy rõ nghiệp và phiền não bao vây bức ngặt thân tâm họ, hành giả dễ dàng khởi lòng từ đối với họ. Hành giả giảng nói kinh Pháp Hoa bằng tình thương đối với chúng sanh, không phải là lời nói hoa mỹ trên đầu môi chót lưỡi thế gian. Bồ tát trải tâm từ thật sự rộng lớn, đến độ chúng hội nghe pháp quên tất cả bức bách thù nghịch. Điều này rất cần trong thời mạt pháp, một thời điểm của đầy rẫy tranh chấp hận thù.

Ở phẩm Trì, người truyền bá kinh Pháp Hoa thường bị chống đối, vì lúc đó vị trí của hành giả ngang hàng với chúng sanh. Nay thành tựu bốn pháp an lạc, hành giả từ thế giới Phật mang tâm từ đến cứu hộ chúng sanh. Làm sao chúng chống đối được. Hành giả bước chân vào trần thế, phá vỡ những tăm tối của cuộc đời. Những đau khổ buồn phiền trong lòng chúng sanh được xóa tan theo từng lời giải thuyết của pháp sư. Thâm nhập pháp vi diệu, người nghe pháp cảm thấy hoan hỷ nhẹ nhàng, thanh thản và pháp luôn luôn luân chuyển trong tâm, chỉ đạo cho đời sống họ mỗi ngày một thăng hoa.

Thành tựu công đức như vậy, mới thực sự diễn nói pháp Như Lai. Vì pháp Như Lai ứng cảm tùy cơ. Tất cả ngôn từ của Ngài sử dụng chỉ nhằm đưa mọi người đến an lành giải thoát. Còn những lời nói nào mang đến buồn phiền khổ đau, chắc chắn không phải là pháp Như Lai.

Hành giả Pháp Hoa đứng ngoài mọi tranh chấp của cuộc đời. Họ không có quyền lợi gì trên thế gian. Hiện hữu nơi nào chỉ nghĩ đến mang lợi lạc cho nơi đó.

Phật dạy Bồ tát không bao giờ được chê tránh kinh điển, không được nói lỗi của người hành đạo. Đừng phê phán pháp môn tu không đồng với mình. Vì làm như vậy sẽ chạm tự ái họ, tất nhiên hành giả khó an lành. Nhưng cũng đừng khen họ, sẽ rớt vô giả dối cũng thọ quả báo. Chuyện xấu ác của họ ta lờ đi, vì nói đúng cũng chết, nên chúng ta phải lựa lời mà nói. Hơn nữa khi chỉ trích lỗi người, hành giả nhận ngay rằng mình đã khởi lên tâm phân biệt là tâm sai trái xấu ác mà người tu hành cần dứt đoạn.

Phát xuất từ tâm tham lam ghét ganh mà chê bai pháp và pháp sư, là những việc hành giả cần đoạn trừ hẳn. Tuy nhiên, ta có thể nêu lên những điểm tốt xấu, những điều cần chỉnh đốn trong Phật pháp để làm sáng đạo. Sự phê bình của hành giả để cùng chung lo xây dựng thực sự, ở giai đoạn ta đã trừ sạch tâm ghét ganh, là việc làm cần thiết nhằm mục tiêu hàng phục chúng ma, thiệu long Tam Bảo.

Đầy đủ tư cách nói pháp như trên, những người đến nghe đều thuận theo, không trái ý pháp sư. Trong kinh diễn tả là những thiện thần đến nghe pháp. Không phải thiện thầnthế giới nào khác hiện ra nghe pháp, mà chính là tư cách của pháp sư thánh thiện phát ra những lời giảng chân thật đúng như pháp đã chuyển đổi tâm chúng hội trở thành thanh tịnh trong sáng, ví như thiện thần. Bấy giờ được mười phương Như Lai phóng quang che chở, hành giả là người thay thế Như Lai làm lợi ích cho đời.

Ở trên sanh diệt môn, hành giả nhìn thấy chúng sanh muôn hình vạn trạng sai khác. Hai người còn không giống nhau, huống gì chúng sanh. Nhưng quán sát trên chơn như môn không có gì khác biệt. Cái nhìn về chúng sanh bình đẳng, nhẹ nhàng đến độ thấy người chỉ đưa một tay hay cúi đầu trước Phật cũng sẽ là Phật. Quán thuần thục như vậy, hành giả không khởi tâm thương những điều thuận, ghét những điều nghịch và tâm ganh tỵ cũng tan biến. Đối với phước báu của người, hành giả Pháp Hoa sẵn sàng tùy hỷ, phát tâm nâng đỡ mọi người tu hành. Vì hành giả thường tâm niệm mọi người cầu đạo đang tiến bước trên lộ trình Bồ tát đạo, tất cả sẽ thành Phật.

* Ý an lạc. Nhìn thấy đối tượng bên ngoài chúng ta thường sanh ra suy nghĩ bên trong. Chúng ta không chê ra mặt, ra lời nhưng chê trong lòng. Đó là bệnh của tôi thuở nhỏ. Sự thật thân mình không hơn ai, nhưng ai mình cũng chê. Trong ý nghĩ, mình khinh người ta, thiên hạ biết nên tìm cách hại mình. Ngay như chúng ta không có ý xấu, họ còn hại, huống chi là có ý xấu. Biết như vậy, chúng ta tập cho ý nghiệp bình thản với tất cả. Đừng khởi ý niệm tốt hay xấu đối với người. Tâm hành giả Pháp Hoa phải hoàn toàn thanh thản. Đó là đức tính cần thiết trong thời mạt pháp, khi lòng chúng sanh lúc nào cũng tràn ngập hơn thua tranh chấp.

Thật vậy, ở thời kỳ hỗn loạn Tam quốc, Ngô Tôn Quyền nương theo tâm hồn thanh cao giải thoát của pháp sư Khương Tăng Hội. Ông nhận được mọi an lành dù nước Đông Ngô của ông là một nước nhỏ.

Trong bài kệ của phẩm an lạc hạnh, Phật dạy người trí trong lòng không bực bội, lo âu, ganh ghét. Đạt được trạng thái an lạc của tâm chứng này, các Tỳ kheo dù sống ở núi rừng hoang dãtinh thần rất trong sáng. Thế giới quan của các Ngài không bao giờ ảm đạm, thê lương, buồn phiền.

Khi thọ trì kinh Pháp Hoa, hành giả đừng khởi niệm ác, không cho phát sanh những ý nghĩ xấu. Hành giả luôn luôn kiểm tra ý của mình trong từng niệm xem có khởi ác không, có còn ham muốn không. Vì sau mỗi ham muốn, thường tiếp nối theo muôn ngàn điều ác khác. Hành giả cố gắng giữ tâm ở trạng thái bình thường, như hư không. Không cho khởi bất cứ niệm nào, dù là niệm phải hay niệm trái. Khởi đầu hành giả thường bị dụ bởi một niệm phải. Lúc ấy, hành giả sẽ rời chánh định và rớt qua niệm trái. Rời chánh định nghĩa là rơi vào vòng sanh tử, không tiến tu được nữa. Vì vậy tâm hành giả phải an trú chánh định và từ đây khởi đại bi tâm.

Đại từ bi tâm phát xuất từ chánh định mới thực sự nằm trong tâm Phật gọi là từ tam muội và bi tam muội. Thành tựu tâm này mới truyền bá kinh Pháp Hoa được. Nhờ an trú chánh định, hành giả không có nếp sống giống trần gian. Tâm hành giả tan biến vào vũ trụ và bao hàm cả vũ trụ. Trong bể pháp tánh, sự hiện hữu của hành giả và người, cùng muôn vật, đều đầy đủ. Bấy giờ mọi loài đều nằm trong tâm hành giả.

Đại từ bi tâm khởi điểm từ đây thì mọi việc làm của hành giả chan hòa với nhau, tuy nhiều nhưng thực là một. Chúng sanh khổ, Bồ tát cảm nhận được khổ đau này. Vì tâm Bồ tát đã thực sự mở rộng, dung chứa được muôn loài và Bồ tát vận dụng tâm chúng sanh đó mà kiến lập Phật quốc.

Phần tu ý an lạc này rất khó. Ai cũng nhận thấy rõ ta tránh mặt dễ, mà khó tránh lòng. Những xấu ác ta đã đuổi nó ra khỏi thân, nhưng nó vẫn sống mãnh liệt ở trạng thái tâm. Ta càng cố xa, thì nó càng tiến gần ta. Tuy nhiên, khi nhận chân được pháp dưới dạng đại bi tâm rồi, hành giả hiểu rõ nếu không cứu chúng sanh xấu ác, ta cũng chết.

Hành giả tùy thuận cứu độ chúng sanh, nhưng sự thậtcứu độ chính mình, nên thành tựu chúng sanhthành tựu Phật độ. Đối với chúng sanh đau khổ, ngang ngược bướng bỉnh, hành giả phải sanh tâm đại bi, vì thực sự nếu họ biết và giỏi như ta, họ đã không phạm tội lỗi. Bồ tát khởi lòng đại bi, tìm mọi cách giúp đỡ chúng sanh, để ngày nào họ cũng thành Phật như hành giả.

Đối với hàng Bồ tát là những bạn đồng tu, hành giả luôn khởi tâm từ, gánh bớt khổ cho họ, cảm thông với khó khăn của họ, khích lệ họ an vui tiến tu trên đường đạo. Trong kinh Duy Ma có dạy, những người tu trong thời mạt pháp, gặp nhiều khó khăn muốn xả tâm đại bi vào Niết bàn. Duy Ma dặn chúng ta cần khuyên nhủ, nhắc nhở, sách tấn họ. Dù đời có khổ, cũng xin đừng vào Niết bàn, để chúng ta và họ cùng song hành làm đạo, tăng trưởng mạch sống cho đạo.

* Thệ nguyện an lạc của Bồ tátchánh hạnh của người tu, kết hợp giữa ý chí và hành động. Ý căn hoàn toàn thanh tịnh, không bị hoàn cảnh chi phối, tâm tư lắng đọng trong sạch, không khởi ý niệm mong cầu lợi lạc, giúp hành giả có một cái nhìn chính xác gần đúng như thật (vì thấy đúng như thậtNhư Lai). Bấy giờ, hành giả thấy tất cả vật theo cái thấy của Như Lai. Đó là cái thấy phát khởi từ ý căn thanh tịnh, rồi thâm nhập thiền định, không kẹt trong phiền não nhiễm ô, tham chấp. Thấy hoàn toàn khách quan không dựa trên tình cảm con người.

Tới giai đoạn này, Phật mới chỉ cho hành giả thế nào là tri kiến Như Lai. Tất cả pháp trước thuộc phương tiện, nhằm thanh tịnh hóa thân khẩu ý, thuộc phần khai tri kiến. Đến phần thứ hai, Phật chỉ cho hành giả cái thấy của Như Lai.

Bằng huệ nhãn mở đầu cho bước đi vào huệ Như Lai, hành giả thấy chư Phật và Bồ tát mười phương hành đạo, cứu vớt trăm ngàn muôn ức chúng sanh. Các Ngài phát nguyện thật rộng lớn, nhưng không có gì có thể não hại được Ngài. Dưới sự giáo hóa của Bồ tát, tất cả trở thành thanh tịnh. Những chúng sanh cang cường khó dạy đều biến thành đồng tử cõi Trời.

Dấn thân vào đời mang thệ nguyện độ tất cả chúng sanh không bỏ sót một ai, nên các Ngài được chúng sanh mừng đón. Kẻ nào muốn mắng chửi, miệng liền câm bít, dao gậy không hại được và người tới nghe pháp cũng không trái ý. Ai nghe pháp rồi ghi nhớ trong tâm, luôn suy tư và đem truyền cho người khác. Lần lần tạo thành thế giới kỳ diệu, tất cả mọi người đều thương yêu nhau.

Với ba nghiệp thanh tịnh và lặn sâu trong tâm thức, hành giả quan sát, nhận rõ những việc làm cao quý phi thườngthế giới của Bồ tát thật đẹp như vậy. Hành giả khởi tâm ưa thích, muốn mang thế giới Thật Báo đó về cho mọi người cùng hưởng, mọi người cùng được khả năng siêu việt như Phật và Bồ tát. Xưa tu hành đạo Bồ tát, Phật Thích Ca và Phật Di Đà cũng vậy. Thâm nhập vào thế giới của Phật Đại Thông Trí Thắng, Phật Thích Ca trở về chuyển Ta bà thành Tịnh độ và Phật Di Đà xây dựng thế giới Cực Lạc ở phương Tây.

Thấy được Như Lai, nghe được pháp âmphát tâm Bồ đề, hành giả Pháp Hoa từ thế giới Thật Báo quay lại Ta bà, biến ý chí thành hành động, thành cuộc sống hiện thực gọi là thệ nguyện.

Giáo sư Kubota nhận xét rằng người có ý chí vào thế giới Thật Báo, nhưng về thế giới Ta bà thì ngán sợ. Chạm thực tế gặp toàn khó khăn, vì những người xung quanh dở ác, không giống người ở thế giới Cực Lạc là thượng thiện nhân, nên sanh chán nản.

Ý chí lớn lao mà không thực hiện để thời gian trôi qua, thì nguyện này thành không tưởng. Khi hành giả thệ nguyện dấn thân vào con đường Bồ tát, hạ quyết tâm dồn tất cả khả năng để đạt mục tiêu, hết lòng làm những việc như chư Phật và Bồ tát đã làm. Chư Phật và Bồ Tát mười phương thấy hành giả đồng hạnh đồng nguyện, mới phóng quang hộ niệm.

Hành giảTa bà làm đạo một, nhưng Bồ tátchư Phật gia bị cho hành giả hàng ngàn, hàng vạn. Từ lực vô hình mà gia bị đến thế giới hữu hạn, nên sự gia bị rất lớn. Tất cả đến với hành giả trên bước đường tu hành đều trở thành bất khả tư nghì. Tùy mức độ thệ nguyện và các việc làm của hành giả đến đâu, mức gia bị các Ngài đến đó. Ngài không gia bị cho chúng ta, khi lòng chúng ta còn ích kỷ, chưa dẹp phiền não, ý chí thấp hèn không chịu dấn thân vào cứu độ chúng sanh. Vì gia bị cho người đầy tư chất tệ xấu như vậy, họ sẽ trở thành kẻ phá đạo.

Riêng chúng ta là những người sơ phát tâm quyết chí tu hành, tịnh xong ba nghiệp, thật sự thương người, muốn cứu giúp người. Tuy nhiên, chúng ta nói người không nghe. Ta phải nhớ đến hình ảnh Phật Thích Ca ngồi trong tháp Đa Bảo. Ngài toàn thiện toàn năng, thuyết pháp giáo hóa, mọi người nghe, quý trọng Ngài như bậc Thầy. Còn chúng ta chưa được xem là thầy, ta phát khởi thệ nguyện trong lòng. Mai kia ta có tháp Đa Bảo như đức Thích Ca, ta sẽ đến giáo hóa họ.

Thật vậy, Đức Thích Ca thành tựu được việc hoằng hóa độ sanh dễ dàng, vì Ngài có tháp Đa Bảo, phân thân được. Nghĩa là Ngài chứa nhóm đầy đủ đạo đức tri thức, đầy đủ quyến thuộc.

Đệ tử Phật hay phân thân Ngài thời bấy giờ quá lớn gồm 12.000 Tỳ kheo, 6.000 Tỳ kheo Nivô số đệ tử tại gia. Muốn hại Ngài, kẻ ác phải nhìn trước xem sau. Ngày nay chúng tamột mình, họ dễ hại quá. Chúng ta đơn độc chưa làm được việc, hẹn lại kiếp nào đó, chúng tavô số đệ tử, có sức mạnh về người, về của cải, về tri thức. Dùng ba sức mạnh này dễ dàng giáo hóa những người ngang bướng.

Nhận được Phật lực truyền vào, kinh ví cũng như vua Chuyển Luân Thánh Vương đưa viên minh châu trong búi tóc cho ta. Đức Như Lai cũng vậy, thấy chúng hội tu tất cả công hạnh, thắng ma ngũ ấm, ma phiền não, diệt ba độc, ra khỏi ba cõi, phá được lưới ma, Ngài mới đem trao kinh Pháp Hoa. Trong chiêm bao nghĩa là trong tương lai người trì kinh sẽ thấy cảnh giới mầu nhiệm của chư Phật, hàng Bồ tát nói pháp và Tỳ kheo vây quanh, thấy mình giảng nói kinh Pháp Hoa khiến mọi người phát tâm Bồ đề. Và thấy được Đức Phật thọ ký thành Vô thượng chánh đẳng giác.

Tóm lại, kinh Pháp Hoa tiêu biểu cho những gì cao quý nhất trên cuộc đời. Kinh này không đối lập với đời, không tách rời cuộc đời mà có đủ hai mặt, việc làm trên thế gianviệc làm trong tâm. Đức Phật dạy chúng ta không bỏ thế tục, nhưng bỏ tâm thế tục. Vì mang tâm thế tục đi vào trần thế, tất nhiên sẽ gặp đụng chạm chống đối. Hành giả nhận biết tất cả tranh chấp hơn thua làm chướng ngại Thánh đạo, nên muốn tu hành kinh Pháp Hoa, phải trụ bốn pháp an lạc, mới truyền bá được.

Thành tựu bốn pháp an lạc, hành giả sẽ là hiện thân của Đức Như Lai trên cõi đời này, không gì có thể não loạn được. Khi đó Bồ tát tùng địa dũng xuất mang kinh Pháp Hoa đến cho ta. Tu theo các Ngài, hành giả mới được an lạc hoàn toàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12078)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10777)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15358)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11259)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12120)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10629)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12779)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18028)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11183)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13070)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15327)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant