Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 25 Phổ Môn

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6877)
Phẩm 25 Phổ Môn

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 25

PHỔ MÔN

 

I. LƯỢC VĂN KINH

Bồ tát Vô Tận Ý bạch Phậtnhân duyên gì mà Bồ tát tên là Quán Thế Âm. Phật đáp rằng nếu vô lượng chúng sanh đang bị khổ nãonhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ tát Quan Âm, thì liền được giải thoát. Nếu người trì danh hiệu Bồ tát Quan Âm, thì không bị tai nạn sau : 1.- không bị lửa cháy, 2.- không bị nước cuốn trôi, 3.- không bị quỷ dữ làm hại, 4.- không bị đánh đập sát hại, 5.- không bị La sát giết hại, 6.- không bị xiềng xích gông cùm, 7.- không bị nạn cướp.

Ngoài ra, chúng sanh nào nhiều tham dục, giận hờn, ngu si thường niệm danh hiệu Bồ tát Quan Âm, tham sân si dứt sạch. Người nào lễ lạy cúng dường Bồ tát Quan Âm, cầu con trai hay con gái đều được như ý muốn. Phước đức cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ tát nhiều như phước đức của người niệm danh hiệucúng dường 62 ức hằng sa Bồ tát.

Vô Tận Ý hỏi Phật rằng Bồ tát Quán Thế Âm làm thế nào dạo khắp Ta bàphương tiện của Bồ tát này như thế nào ? Phật trả lời nếu có chúng sanh nào cần dùng thân Phật được độ thoát, thì Bồ tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật thuyết pháp. Cần thân Đế Thích, Ngài hiện thân Đế Thích. Cần thân trưởng giả, Ngài hiện trưởng giả v.v… Tùy trường hợpBồ tát Quan Âm hiện các loại thân hình tương ưng. Ngài có 32 hiện thân để cứu độ chúng sanh.

Sau khi nghe Thế Tôn nói về công đức của Bồ tát Quán Thế Âm, Vô Tận Ý Bồ tát liền mở xâu chuỗi ngọc vô giá đang đeo dâng cúng cho Bồ tát Quán Thế Âm. Ngài không nhận.

Phật bảo Bồ tát Quan Âm nên thương xót Vô Tận Ý và hàng tứ chúng cùng bát bộ Thiên long mà nhận chuỗi ngọc đó. Quan Âm nghe lời Phật dạy, nhận xâu chuỗi ngọc và chia làm hai phần : một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng cúng Đức Đa Bảo.

Ngài Trì Địa bạch Phật rằng chúng sanh nào nghe được phẩm Quán Thế Âm nói về đạo nghiệp tự tạithần thông ứng hiện khắp mọi nơi của Quan Âm, phải biết công đức người ấy rất lớn. Lúc Phật nói phẩm này, 84.000 chúng sanh trong đại chúng phát tâm cầu Vô thượng chánh đẳng giác.

II. GIẢI THÍCH

Đức Phật dạy người khởi tu ở nhơn môn không thể phán đoán những việc làm bất tư nghì của hành giả tu ở quả môn được. Hành giả Pháp Hoa trên quả môn nhìn xuống chúng sanh tu ở nhơn môn thật đáng thương hại. Ý này nhằm chỉ Phật Thích Ca quan sát pháp tu của ngoại đạokhởi tâm thương hại họ. Trong kinh diễn tả kết quả của ngoại đạo thu lượm được chẳng đi đến đâu gọi là “cái giá một ngày”.

Từ phẩm Như Lai thọ lượng trở về sau thuộc phần tu của hành giả từ quả hướng ngược lại về nhơn để hành đạo. Trong phẩm Như Lai thần lực, Phật cho Bồ tát thấy thế giới mười phương chấn động để hình thành một quốc độ thanh tịnh.

Sau Như Lai thần lực đến phần hiển thị thần lực của các Bồ tát. Trước nhất Phật giới thiệu Bồ tát Dược Vương hoàn toàn vô hình, kế tiếphình ảnh Diệu Âm Bồ tát đến Ta bà, lại trở về thế giới bản thể trong một niệm tâm. Một niệm tâm đến và một niệm tâm về nghĩa là Ta bà cần thì Ngài tới, xong việc trở về. Cách hành đạo đến và đi đúng lúc của Bồ tát như vậy, chúng ta dễ hiểu.

Tuy nhiên Bồ tát Quan Âm ở luôn Ta bà, không phải đến rồi đi như Diệu Âm. Ngài ở lại Ta bà mãi mãichúng sanh không chán. Nói cách khác, từ một Bồ tát Diệu Âm ở trong tâm tư được cụ thể hóa bằng hiện hữu của Bồ tát Quan Âm trong cuộc sống ở Ta bà. Quan Âm sống như thế nào mà chúng sanh Ta bà chẳng những không chán, lại còn luôn luôn kính trọng tôn thờ Ngài.

Với quá trình từ Như Lai lực đến Bồ tát lực và trở thành hiện thực cuộc sống của Phổ Môn, mở ra cho chúng ta thấy tầm hoạt động rộng lớn khắp mọi hướng của Phật. Phổ Môn tiêu biểu cho trí con người không thể nghĩ bàn, phổ cập khắp nơi. Ở đây mượn hình ảnh Bồ tát Quan Âm để chỉ cho con người và khả năng biến hóa là lực hay trí. Trí tuệ là vốn quan trọng nhất của người tu. Nhưng chúng ta tu hành lại thường quên hạt nhân quý báu này, để vô minh nghiệp chướng ngăn che bóp chết trí tuệ.

Mở đầu phẩm này, hình ảnh Vô Tận Ý Bồ tát tiêu biểu cho thắc mắc, suy nghĩ của con người. Một con người mà ý không bao giờ cùng tận, trí tuệ phát triển không bao giờ chấm dứt, gọi là Vô Tận Ý. Khác với hình ảnh Thanh văn thủ phận, sợ thắc mắc khổ, không thắc mắc, huệ không sanh.

Từ trên Phật quả xuống hành đạo mới có Bồ tát Vô Tận ÝQuan Âm. Còn Thanh văn chỉ có diệt tận định. Bằng chính thắc mắc đó, Bồ tát quán chiếu lại trần thế để thấy nghe. Và từ thấy nghe, vấn đề mới đặt ra cho Bồ tát dấn thân ở Ta bà hành đạo, hoàn toàn khác với Thanh văn tu hạnh ly trần, không thấy, không nghe, không biết.

Các kinh ghi công hạnh của Bồ tát Quan Âm khác nhau. Tùy pháp tu, trình độ hiểu biết sai biệtnghiệp lực mà cảm nhận về Ngài khác nhau. Đứng trên lập trường nhất Phật thừa hay trên Phật quả quan sát Quán Thế Âm, hữu tình và vô tình đều thành Phật đạo. Cho đến tứ sanh lục đạo và hẹp hơn nữa, đối tượng hành đạo của Ngài là loài người chúng ta. Rõ ràng quả đức của Quan Âm là ở cõi Ta bà.

Vì vậy, Quan Âm liên hệ mật thiết với chúng ta không nghĩ bàn được. Từ Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ đến Việt Nam, ở đâu cũng thờ Ngài trong tự viện hoặc lộ thiên. Thấy tôn tượng Ngài, chúng ta cảm được công hạnh của Bồ tát Quan Âm đối với loài người chúng ta như thế nào.

Ở Trung Hoa thường thờ Ngài dưới hình thức Quan Âm Nam hải hay Từ Hàng đại sĩ. Vì người ta thường thấy Ngài hiện ra người chèo thuyền cứu vớt kẻ bị tai nạn. Ở Triều Tiên thờ Ngài dưới hình tượng ba đầu sáu tay. Ở Nhật Bản thờ 10.000 tượng Quan Âm trong tam thập tam gian đường. 33 gian nhà thờ này tiêu biểu cho 33 loại thân hình của Quan Âm giáo hóa chúng sanh. Tuy nhiên, các kiểu thờ Quan Âm dưới đây thông dụng hơn cả :

- Thiên thủ thiên nhãn tiêu biểu cho quyền năng và sự quan sát của Quan Âm, việc nào Ngài cũng làm được. Ngài quán 1.000 trường hợp và làm việc dưới 1.000 dạng thức khác nhau. Con số 1.000 chỉ là số tượng trưng vì thực sự Bồ tát Quan Âm ở trong tư thế thiên biến vạn hóa.

- Mã Đầu Quan Âm hay Đại Lực Trì Minh Vương tiêu biểu lòng từ bi của Quan Âm nâng lên độ cao và Ngài sử dụng lòng từ dưới dạng sân hận, tức nghịch duyên hóa độ.

Việt Nam thường thờ Quan Âm dưới hình tượng Tiêu Diện đại sĩBồ tát thị hiện sân hận để hàng phục kẻ ác, không phải sân hận thực sự. Vì phát xuất từ chánh định hay Pháp Hoa tam muội, dù hành động của Bồ tát ác, cũng biến thành thiện hoặc vô lậu.

Bồ tát mang nghiệp ác phát xuất từ căn bản đại từ biHuệ Tư Thiền sư gọi là vô duyên đại từ bi tâm. Nghĩa là hạnh Bồ tát khiến người ác phải sợ và kính trọng, không dám phản ứng ác, không làm cho họ sân hận. Ngược lại, thiện phát xuất từ căn bản vọng tâm là ngụy thiện vẫn thọ quả báo.

- Thập nhất diện Quán Thế Âm Bồ tát. Thập nhất diện là 11 phía, 11 bình diện khác nhau tiêu biểu cho Quan Âm dưới dạng thể đại từ bi, mọi mặt nhìn về Ngài đều thấy dễ thương. Ta nghĩ thế nào sẽ thấy Ngài như vậy.

- Chuẩn Đề Quan Âm phát xuất từ Ấn Độ. Quan Âm hiện dưới dạng 700 vị nữ thần đặt dưới sự thống lãnh của Long Nữ.

- Như Ý Luân Quan Âm : Quan Âm đeo chuỗi anh lạc được thờ nhiều nhất. Vòng chuỗi như ý tiêu biểu cho Như ý luân tam muội, nghĩa là tất cả mọi việc mong cầu của chúng sanh đều được Bồ tát Quan Âm thỏa mãn theo ý muốn.

Trên lập trường Phổ Môn, tức trên Phật quả nhìn về chúng sanh qua hình bóng của Quan Âm với các hạnh khác nhau của Ngài ghi trong các kinh, tập họp được một Quan Âm thực sự trong lòng người. Mỗi người cảm nhận về Ngài không giống nhau.

Dù thân trụ thế giới Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà nhưng Bồ tát Quan Âm lại nghiêng tai về cõi Ta bà, lóng nghe ngôn ngữ âm thanh của các loài chúng sanh ở đây. Vì để tâm nghe âm thanh trần thế, giữa Ngài và trần thếliên hệ mật thiết với nhau không rời được. Đó chính là nguyên nhân Bồ tát Quan Âm thường hiện hữu nơi Ta bà.

Ở tình huống nào, hành giả cảm được Quan Âm, Ngài liền hiện tới cứu. Chẳng những Quan Âm nghe được tất cả âm thanh trong loài người, tánh nghe này đặc biệt thấu suốt mười phương Phật. Cho đến tất cả những ức niệm nhỏ nhất của chúng sanh khởi từ Phật tánh, Ngài đều nghe được. Vì vậy, kinh Lăng Nghiêm gọi Ngài là Viên thông giáo chủ. Quan Âm trong Lăng Nghiêm thuộc phần tu nhân, nhưng ở Pháp Hoa là quả của Ngài. Ngài đã thành Phật và từ Phật cảnh giới, Ngài đi xuống chúng sanh giới.

Nếu chúng ta chưa đủ tư cách Bồ tát, mọi việc làm cũng chỉ là hữu lậu, vẫn kẹt trong lục đạo tứ sanh. Tuy nhiên, nương vào hạnh Bồ tát để hành đạo có thể nhất thời thông được Phật giới.

Long Nữ thị tùng Bồ tát Quan Âm tiêu biểu cho hành giả nương được hạnh Quan Âm, thông được từ súc sanh giới lên Phật giới. Chúng ta thờ Quan Âm, một bên là Thiện Tài, một bên là Long Nữ. Hai hiệp sĩ này trợ hóa Bồ tát Quan Âm. Long Nữ trong phẩm Đề Bà Đạt ĐaLong Nữ của Quan Âm ứng hiệnThiện Tài ứng hiện trong Hoa Nghiêm. Vì tùy thuộc Quan Âm, nên các vị này hoạt động dưới dạng thức của Quan Âm. Thiện Tài tuy nhỏ, nhờ nương lực Bồ tát Quan Âm, thông được mọi cảnh giới. Và tầm hoạt động của Long Nữhoạt động của Quan Âm dưới dạng bát bộ chúng. Theo kiến giải của Mật giáo, những hoạt động này thể hiệntrạng thái siêu hình.

Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Bồ tát Quan Âm thị hiện vô số hóa Phật. Trong Tâm kinh, Ngài có tên là Quán Tự Tại thông cả hữu hình và vô hình, hữu tình và vô tình. Ngài hoàn toàn tự tại với tất cả pháp, với mọi hiện tượng trên cuộc đời thì việc ban vui cứu khổ mới không chướng ngại. Với tư chất Quán Tự Tại, Ngài quán sát, phá vỡ được vỏ ngũ uẩn thành KHÔNG, không còn chướng ngại trong việc làm đạo và khổ ách đều dứt.

đáp ứng nhu cầu của mọi người hoàn toàn tự tại, đối với Quan Âm, Sắc mới là Sắc, KHÔNG là KHÔNG, mà Sắc cũng không phải là Sắc, KHÔNG cũng không phải là KHÔNG v.v… Giáo hóa của Quan Âm rõ ràng là vô quái ngại. Thật vậy, kẹt vào sắc thì bị hạn cuộc, mà rơi vào Không thì tâm từ sẽ bị chết, không hành đạo Bồ tát được.

Quan Âm sử dụng đại biđại trí như hai cánh tay. Tác dụng của Quan Âm dưới dạng tâm. Đại bi tâm của Ngài sanh ra tất cả pháp hóa độ chúng sanh. Vì thế, tuy không hiểu Đà la ni của Ngài, ta vẫn cảm nhận được. Tình thương của Bồ tát Quan Âm hay của Phật được nâng đến độ cao nhất, thấy tình thương không còn mới chính là tình thương chân thật. Giống như mặt trời tỏa chiếu sự sống khắp nhân gian, không phân biệt tốt xấu. Dù ta quý mến Phật hay không, Ngài vẫn thương ta. Thành tựu tư cách này, Bồ tát Quan Âm hành đạo không chướng ngại, thân giáo hóa thế gian mà tâm vẫn an trụ thế giới Phật.

Phẩm Phổ Môn cho thấy Quan Âm là một vị Phật hành đạo dưới dạng Bồ tát. “Ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, Quán Thế Âm Bồ tát tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp”. Hay nói cách khác, ta thờ Đức Phật Thích Ca mà cảm Đức Quan Âm thì đó chính là Quan Âm vậy.

“Ưng dĩ Bích Chi Phật thân đắc độ giả, tức hiện Bích Chi Phật thân nhi vị thuyết pháp”. Nếu là Duyên giác thực sẽ không độ được người và chỉ trụ ở điểm đó thôi. Tuy nhiên, vị Duyên giác này là hiện thân của Quan Âm Bồ tát thì theo họ tu, hành giả được khai mở, phát tâm Bồ đề và tu hạnh Quan Âm lúc nào mà hành giả không biết.

hiện thân tam Thánh không đủ để hóa độ chúng sanh, Bồ tát Quan Âm còn hiện thân Trời Phạm vương hay Trời Đại Phạm Thiên vương của Ấn Độ giáo để đáp ứng nhu cầu nhân gian. Tất cả các vị Trời này là biểu tượng tín ngưỡng của các tôn giáo Ấn Độ và Trung Hoa.

Nếu thực sự các vị này là hiện thân của Bồ tát Quan Âm để hóa độ chúng ta, thờ các Ngài ít lâu, chúng ta sẽ hướng tâm về Phật. Thể hiện tinh thần này, chúng ta thấy các vị thần Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản lần quy về Phật đạo, nhờ Quan Âm Bồ tát hiện dưới dạng vị thần hóa độ.

Ngay trong cuộc sống hiện tại, Bồ tát Quan Âm thường hiện ra dưới biểu tượng gợi cho hành giả phát tâm. Nhưng hành giả không biết được và hạ xuống thấp nhất, Ngài giải quyết cho nhân gian hai điều mà họ cầu xin và giúp họ thoát khỏi 7 tai nạn (thất nạn nhị cầu).

Trường hợp hành giả rơi vào tuyệt mạng tuyệt thể, phá vỡ được màn ngũ uẩn, từ Phật tánh khởi tâm đại bi, mới nhận được đồng thể đại bi với Quan Âm. Hành giả không ở trạng thái tuyệt mạng tuyệt thể, nhưng trụ được tâm trong Đà la ni, vẫn có độ cảm như trên.

Vì vậy, niệm Quan Âm phải niệm dưới dạng niệm tâm mới giao cảm với Ngài. Chánh niệm đến độ hành giả đồng hạnh với Quan Âm, thân hành giả hiện thành thân Quan Âm. Dùng được thân Quan Âm trang nghiêm cho thân mình, việc ác không thể đến với hành giả. Thế giới an lành của Bồ tát lần lần mở ra cho hành giả hoặc hành giả chuyển đổi được hoàn cảnh xấu thành tốt. Ví dụ bị lửa đốt cháy, hành giả chánh niệm Quan Âm, lửa không đốt được. Nhưng hành giả phải niệm bằng tâm niệm. Còn niệm ngoài miệng để khỏi cháy thì thế nào cũng cháy. Niệm đến vô niệm, niệm ngoài thức, không còn biết nóng. Dù cho xác thân cháy, cũng chỉ cháy ngũ uẩn thân và hành giả chứng được Pháp thân.

Từ nạn lửa, cho đến bị nước cuốn trôi, gông cùm xiềng xích, oán tặc bao vây v.v…, hành giả trụ tâm chánh niệm Bồ tát Quan Âm. Ngài đều gia hộ cho thoát khỏi tai nạn. Nhưng hành giả phải cầu đúng, nghĩa là đồng hạnh đồng nguyện với Quan Âm Bồ tát, Ngài mới gia bị. Cầu nguyện dưới dạng vô ý thức của con người hay xứng tánh gọi là chuyên niệm mới bắt gặp hộ niệm của Bồ tát Quan Âm, một sự hộ niệm hay trợ lực nằm ngoài hiểu biết diễn tả thông thường. Nếu gặp hiểm nguy, chúng ta có chuẩn bị và tìm lối thoát được, thì đó không phải là thần lực của Bồ tát Quan Âm.

Quan Âm xuất hiện với 32 ứng hiện thân, tức ở trong 32 hoàn cảnh tiêu biểu cho mọi tình huống, Ngài đều thị hiện tương ưng để giải quyết 7 tai nạn cho người thế gian. Ngài đương nhiên trở thành người che chở cần thiết, mang an lành cho chúng sanh Ta bà, làm thế nào họ chán Ngài được. Nhất là yêu cầu thoát khỏi mọi tai nạn khổ áchyêu cầu bức bách muôn đời của chúng sanh Ta bà.

Từ gợi ý này, Phật khuyên chúng ta niệm Quan Âm, tức học hạnh Quan Âm, đến đâu đáp ứng yêu cầu lợi lạc nơi đó. Được như vậy, công việc hoằng hóa độ sanh của chúng ta nhất định tốt đẹp.

Việc làm của Quan Âm không chỉ giới hạn ở thất nạn nhị cầu, Ngài còn dắt hành giả qua 500 do tuần đường hiểm về bảo sở. Trên 500 do tuần, hành giả thấy 500 Quan Âm khác nhau. Mỗi do tuần, hành giả có một Quan Âm và sau cùng ở bảo sở, Bồ tát Quan Âm của hành giảĐức Phật.

Từ trên Phật quả xuống, Ngài đưa hành giả về thế giới Phật bằng thuyền từ, tiêu biểu bằng cánh sen mang ý nghĩa nương theo hạnh Bồ tát để tu Pháp Hoa. Quan Âm Bồ tát không chỉ làm những việc lặt vặt như thất nạn nhị cầu hay cầu gì cho nấy. Hiểu như vậy, Bồ tát Quan Âm sẽ không còn linh nghiệm, vì có người cầu được, có người cầu không được. Chẳng những Bồ tát Quan Âm hành đạoTa bà, Ngài còn trợ hóa Phật A Di ĐàTịnh độ phương Tây.

Việc làm của Ngài ở hai trụ xứ tịnh uế trái ngược này khiến chúng ta cảm nhận được vào thời quá khứ, Ngài là vị cổ Phật Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì thương nhân gian, Ngài hiện thân sống với chúng sanh Ta bà dưới dạng Bồ tát Quan Âm.

Hiện hữu bằng con người đắc đạo hoàn toàn, Ngài rất tự tại trong khi giáo hóa chúng sanh, cần ứng hiện thân nào, Ngài mang thân đó. Nói rộng hơn, Bồ tát Quan Âm nhằm diễn tả Pháp thân Phật hay phẩm Phổ Môn nói lên sự giáo hóa của Phật bằng lực vô hình. Từ lực vô hình ở bản thể hiện thành hiện thực theo yêu cầu của loài người.

Xuất hiện trên cuộc đời mang tất cả loại hình để hành đạo và đạt mục tiêu xong, Phật diệt độ. Trên lập trường Pháp Hoa, Phật hiện hữu miên viễnbản thể giới. Trên mặt sanh diệt của hiện tượng, tuy không có Ngài, nhưng ai thỏa mãn được yêu cầu tri thứcđạo đức của con người, hướng dẫn con người đến toàn thiện toàn mỹ, người đó chính là Phật, là sứ giả của Như Lai.

Vì vậy, theo tinh thần của Đại thừa, hình ảnh Phật 500 năm sau khi Ngài diệt độ, thể hiện nơi Long Thọ Bồ tát. Ngài nương giáo lý Đức Thích Ca, triển khai thành sức sống mãnh liệt của Phật giáo Đại thừa. Và Phật giáo truyền sang Trung Hoa, theo yêu cầu của thời đại đó, sản sinh ra một Đức Phật dưới dạng hình Cưu Ma La Thập. Đến Nhật Bản, Đức Phật lại xuất hiện dưới hình bóng Thánh Đức thái tử. Vì bấy giờ, nước Nhật tôn sùng Thần đạo và huyết thống, Thánh Đức không thể xuất thân trong giai cấp bình dân. Thánh Đức thái tử muốn thuyết kinh Pháp Hoa phải nói dưới dạng Thái Dương Thần nữ.

Đến thế kỷ thứ 8, xã hội Nhật bắt đầu phát triển văn hóa, thì xuất hiện một KOBO DAISHI là con của lãnh chúa. Ngài hành đạo bằng cách đi tiên phong trong việc phát triển văn hóa, như sáng chế ra chữ quốc ngữ cho dân Nhật, thảo sớ văn cho Đằng Nguyên sang Trung Quốc. Trường tư thục đầu tiên cũng do Ngài sáng lập cùng những danh họa và những áng văn sớm nhất là do Ngài sáng tác.

Sang thế kỷ 12, giới võ sĩ phát triển mạnh. Sức mạnh đóng vai trò quan trọng, người nào mạnh mới tổng hợp được quần chúng. Lúc ấy, lại có sư Bình Thanh Thạnh làm Tể quan. Đến thời kỳ thành phần nông dân vượt lên, lại thấy Ngài Nhật Liên, con của người chài lưới, biểu tượng cho thành phần lao động. Dân Nhật tôn sùng Ngài là Bồ tát Thượng Hạnh, là thượng thủ của các Bồ tát Tùng địa dũng xuất trong kinh Pháp Hoa.

Riêng người Việt Nam, hiểu và tin Đức Quan Âm một cách sâu sắc, thể hiện qua hành động của các vua quan đời Lý Trần. Thật vậy, Phật giáo Việt Nam khi hội nhập vào xã hội đã có thái độ dứt khoát. Cần hiện Thiên tướng hiện Thiên tướng, cần phụ nữ thân hiện phụ nữ thân, như Ỷ Lan thứ phi. Đối với kẻ nghịch, bà dứt khoát trừng trị. Nhưng hàng phục được chúng rồi, bà lại rất hiền, nên được dân chúng tặng cho danh hiệuQuan Âm nữ.

Thẳng thắnkhoan dungtinh thần Quan Âm của Việt Nam. Vì vậy, học hạnh Quan Âm phải tùy thời, tùy chỗ, tùy đối tượng mà có thái độ ứng xử khác nhau. Theo tinh thần này, vua quan và thiền sư thời Lý Trần không do dự trước giới sát khi các Ngài phải đối phó với giặc ngoại xâm. Tuy nhiên, chận đứng được khả năng sát hại của giặc rồi, các Ngài lại thể hiện tinh thần từ bi, không hận thù, xem họ như bạn. Tiêu biểu như việc làm của vua Lý Thánh Tông không khoan nhượng trước thế lực của kẻ hiếu chiến. Nhưng thắng giặc Chiêm Thành xong, Ngài thể hiện tấm lòng nhân đạo, tha cho vua Chiêm là Chế Củ. Hoặc Trần Nhân Tông thắng quân Nguyên xâm lược, Ngài trở thành thiền sư, làm Tổ của phái Trúc Lâm.

Có thể nói thái độ của Phật giáo Việt Nam ứng xử theo tinh thần 32 hiện thân của Bồ tát Quan Âm. Việc làm nào cần nói lên chân lý thì sử dụng ngay. Thí dụ Lý Thường Kiệt đánh để nói lên chân lý “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”. Ông đã thể hiện chân lý trong mọi tình huống; thể hiện với tư cách hiền hòa hay bằng hành động dứt khoát thẳng tay trừng trị. Để trấn át loài hung dữ cô hồn, Bồ tát Quan Âm phải hiện thân Tiêu Diện đại sĩ. Đối với người hiền lương, Bồ tát Quan Âm là bà mẹ hiền ban vui cứu khổ.

Trên bước đường hành Bồ tát đạo, muốn thành tựu công đức, phải hiện được càng nhiều sắc thân càng tốt, tức phải có trí tuệ nhìn đúng sự thật, ứng xử cho hợp tình hợp lý. Vì vậy, các danh Tăng hiện hữu khắp nơi, mang những hình thái khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đều đáp ứng việc lợi ích quần sanh và đưa người về Phật đạo giải thoát. Ý này nói lên tinh thần vì thương tưởng cho đời, Đức Phật hiện thânTa bà làm đủ các việc hay tinh thần Phổ Môn thị hiện dưới tất cả loại hình theo yêu cầu chúng sanh.

Với mục tiêu này, Bồ tát Quan Âm hiện hóa trên cuộc đời bằng mọi dạng thức. Từ Phật cảnh giới, Ngài bước vào trần gian, sống bên cạnh chúng ta để đưa tất cả đến bờ giải thoát. Nếu chỉ thấy Ngài dưới dạng thức ban vui cứu khổ để van vái cầu xin, thì Ngài là một vị thần linh đã chết. Nhưng nếu chúng ta cảm hạnh Ngài qua tri thứcsuy luận của nhân gian thì Ngài trở thành tà kiến. Hạnh Quan Âm không thể hiểu ở trạng thái cục bộ này.

Quan Âm phải ở dạng thức từ trên Phật quả nhìn xuống chúng sanh giới để làm đạo và từ nơi này hướng về Phật cảnh giới trong tư thế khai ngộ. Theo Ngài Huệ Tư, Phật giớichúng sanh giới không khác. Phật là Diệu Pháp, chúng sanhLiên Hoa. Bồ tát hành đạo không thể hủy diệt môi trường chúng sanh. Đức Phật tu hạnh Bồ tát mới dung hóa được hai cõi tịnh uế và lấy chúng sanh giới làm Niết bàn. Có thể ví Bồ tát là hoa, Phật là quả, chúng sanh là gốc rễ, pháp là nước và phân đất là phiền não. Hiểu được như vậy, hạnh Quan Âm mới là cửa ngõ cho Bồ tát sơ phát tâm vào đạo. Vì ngoài hạnh Quan Âm, không có hạnh nào khác để hành đạo.

Khi Phật giải thích xong công hạnh của Bồ tát Quan Âm, Ngài Vô Tận Ý cúng dường Quan Âm chuỗi ngọc như ý. Quan Âm không nhận. Phật liền bảo Quan Âm nên thương Vô Tận Ýchúng Tăng mà nhận chuỗi ngọc. Lời Phật dạy gợi chúng ta suy nghĩ bố thí cúng dường phải đúng như pháp. Người cúng và người nhận đều lợi lạc, hợp thời thanh tịnh mới thành tựu pháp. Ngài Vô Tận Ý cúng dường Đức Quan Âm, vì nhận rõ Quan Âm sử dụng chuỗi ngọc lợi ích hơn Ngài. Bồ tát Quan Âm cũng thấy rõ như vậy. Ý thức của người cúng và người nhận là Bồ tát Vô Tận ÝQuan Âm đều hợp thời thanh tịnh, nhằm làm lợi ích chúng sanh, mới thành tựu trọn vẹn pháp cúng dường.

Quan Âm nghe lời Phật dạy nhận chuỗi ngọc cúng dường. Theo tôi, điều này gợi nhắc chúng ta trên bước đường tu, ta nghe lời Phật hay nói cách khác, Phật tiêu biểu cho trí giác. Vì vậy, ai cúng vật gì, chúng ta phải suy nghĩ kỹ có nên nhận không. Vì mọi việc xảy đến đều có yêu cầu, có lý do riêng. Chúng ta không biết cứ nhận, càng dễ thọ quả báo. Nhận mà không đáp ứng được yêu cầu của người, sau này họ sẽ gây khó khăn cho chúng ta không ít.

Từ thuở nhỏ tôi đã sớm ý thức ý nghĩa câu chuyện Quan Âm vâng lời Phật dạy mà nhận chuỗi ngọc. Tôi rất sợ phiền lụy của việc thọ nhận. Ai cho hoặc giúp đỡ, tôi suy nghĩ nếu không giải quyết được mong cầu của họ, tôi dứt khoát không nhận.

Bồ tát Quan Âm nhận xâu chuỗi của Vô Tận Ý làm Phật sự lợi ích Trời người. Ý thức như vậy, Ngài mới nhận. Kinh diễn tảPhật bảo Quan Âm nhận. Nhận xong, Bồ tát Quan Âm phân chia chuỗi ngọc thành hai phần, một phần cúng cho Đức Đa Bảo và một phần cúng cho Thích CaTa bà. Có thể hiểu trên bước đường tu, chúng ta hoàn toàn hướng tâm về Tây phương hay hướng đến Ta bà, đều không đúng.

Bước theo lộ trình thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanhQuan Âm vẽ ra, chúng ta tùy duyên, tùy yêu cầu chúng sanh đáp ứng lợi lạc cho họ. Nhưng tâm hồn ta lúc nào cũng phải hoàn toàn trong sạch thanh tịnh. Giống như hình ảnh của Quan Âm trợ hóa cho Phật A Di ĐàTây phương thuần tịnh, Ngài vẫn hiện hữu mãi mãi bên cạnh chúng sanh Ta bà đau khổ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12079)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10778)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15359)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11260)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12121)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10630)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11854)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12779)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12628)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18029)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11184)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13071)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15329)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14163)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24623)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant