Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

03 Tháng Mười Hai 201510:32(Xem: 11897)
Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

KINH SAṂYUKTĀGAMA 17:
BỨNG GỐC VÀ BUÔNG BỎ


Nguyên Giác

 Kinh Saṃyuktāgama 17 Bứng Gốc Và Buông Bỏ

 
Có một số kinh được Đức Phật đưa ra và gọi đó là giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy giáo pháp ngắn gọn để lui về một góc rừng tu hành khẩn cấp.

Trong đó có Kinh Bahiya, dạy rằng “trong cái thấy chỉ là cái được thấy, trong cái nghe chỉ là cái được nghe…” Pháp này trong thơ thiền Việt Nam là, quên hết các pháp và chỉ còn thấy trên đầu một chữ “Như”…

Hay như trong Kinh Khemaka, Đức Phật dạy y hệt Kinh Kim Cang là “ưng vô sở trụ… chớ trụ tâm vào đâu hết…”

Hay như Kinh Kalaka Sutta, dạy chớ dựng lập thấy biết, và Đức Phật nói rằng đó là dạy về pháp "Như" tối thượng, không pháp nào cao hơn.

Hay như Kinh Cetana Sutta, dạy chớ dựng lập ý niệm.

Hôm nay, bài này sẽ khảo sát về lời dạy: hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà chúng ta nhận biết và tiếp cận. Nhưng chớ nghĩ đây là một hình thức hư vô chủ nghĩa, một kiến giải mà  chính Đức Phật đã bác bỏ. và vì chữ Không do Đức Phật tuyên thuyết hoàn toàn xa lìa hai cực có và không.

Tương tự, trong các pháp ngắn gọn đã khảo sát nêu trên, không có nghĩa là xóa bỏ tri kiến hay xóa bỏ ý niệm, chỉ đơn giản là sống với cái tâm khi niệm chưa khởi, khi tri kiến chưa dựng lập, khi không thấy một pháp nào để trụ hay vô-sở-trụ. Nói kiểu các thiền sư xa xưa, khi nghe chỉ là nghe, khi thấy chỉ là thấy, đó là tâm gì? Hay chỉ là vô tâm? Hay là tâm nguyên sơ? Nói gì cũng không trúng, vì qua nhiều bài kinh với nhiều cách tiếp cận, chúng ta thấy ngôn ngữ không nêu chính xác được. Mới biết, Đức Phật tuyệt vời tối thắng, tuyệt vời hy hữu.

*

Kinh sắp nói nơi này, hẳn là dạy cho những vị tăng đã nhiều năm học đạo, vì giới định huệcon đường tất yếu để giải thoát. Trong truyền thống, tu thiền là phải nhiếp tâm, phải nhiếp niệm và phải phòng hộ các căn – nhưng trong kinh này, không dạy nhiếp tâm, không dạy nhiếp niệm, không dạy phòng hộ các căn, chỉ đơn giản dạy là hãy bứng gốc và buông bỏ hết [mọi hiện tướng của thân tâm], và Đức Phật nói rõ đây là giáo pháp ngắn gọn.

Cũng nên ghi rằng, chư tổ Thiền Tông khi dạy pháp buông hết (công án: Tùy tha khứ) vẫn cảnh giác rằng buông bỏ mà chớ nghĩ là Không, thấy biết mà chớ nghĩ là Có...

Trong sách “Kho Báu Nhà Thiền” của Thiền sư Văn Thủ, bản Việt dịch của dịch giả Định Huệ, nơi “Chương 6: Học đạo cần phải nhận đúng như thật” có ghi lời dạy buông hết các pháp, từ Thiền sư Bá Trượng:

“Các ông trước dứt các duyên, bặt hết muôn việc, hết thảy các pháp thiện cùng bất thiện, thế gian cùng xuất thế gian, chớ có ghi nhớ, chớ có nghĩ tưởng, buông xả thân tâm cho nó tự tại, tâm như gỗ đá không còn phân biệt, tâm không dấy niệm, đất tâm không trống không thì mặt trời trí hụê tự hiện. Chỉ cần dứt hết thảy phan duyên tham, sân, ái thủ, tình chấp cấu tịnh sạch hết, đối với ngũ dục, bát phong chẳng động, chẳng bị cái thấy, nghe, hay, biết ràng buộc, chẳng bị các cảnh làm mê lầm thì tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, đó là người giải thoát...”(1)

Trong tác phẩm “Tham Thiên Phổ Thuyết” của Lai Quả Thiền Sư, bản Việt dịch của Thiền Sư Thích Duy Lực, nơi “Chương  10. Lục Căn Khó Nhiếp” có viết về lời dạy buông xả hết thấy nghe hay biết, xin trích:

“LỤC căn là chỉ cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phạm vi của lục căn bất quá ở trên phạm vi thân này sao lại nói khó nhiếp ? Ông muốn nhiếp, ta thì muốn buông. Vì cớ sao ? Vì nhiếp để giữ kín nó lại đó là hại lớn. Chẳng bằng thấy có tướng thì buông xả cái thấy, nghe có tiếng thì buông xả cái nghe, bốn căn kia cũng như thế. Người hành đạo trước tiên quên thấy quên nghe, kế đến tịnh thân tâm, chẳng những lục căn, lục trần được buông xả, mà lục thức theo đó cũng dừng. Thường thấy người trụ Tòng lâm đầu thân, tay chân cứng như cây khô, đi như người gỗ, ngồi như ông Địa, đây tuy chẳng hay, song so với người phóng đãng thì tốt gấp muôn lần. Như thế, chẳng qua chỉ là mắt nhắm không liếc ngó, nhưng bên trong còn động, hễ con ngươi chợt nhìn liền bị tướng lôi; tai dù không nghe, hễ đầu bỗng lay động liền bị tiếng thâu. Cách hành như thế thì đâu có nhiếp được các căn.

 Cách nhiếp chân chánh ví dụ như: Một cái phòng xung quanh có sáu cửa sổ, trong đốt một ngọn đèn thì ánh sáng từ sáu cửa chiếu ra ngoài. Muốn trừ bỏ một cửa thì dùng vải bố che lại ắt một cửa tự tối. Dùng vải che dụ cho giữ con mắt không cho nhìn bên ngoài. Muốn trừ bỏ cửa thứ hai, cũng dùng vải che, vải che tức là giữ cái tai không cho nghe bên ngoài. Bốn cửa kia cũng vậy. Cách hành như thế tạm nhiếp thì được, song chưa phải là hạnh đốn (đốn ngộ). Cách hành của Thiền tông không cần đóng sáu cửa sổ, trước tiên bỏ ngọn đèn ở giữa phòng, kế đến dẹp luôn cả cái phòng, chẳng những lục căn, lục trần tự không, lục thức cũng tự xa lìa. Thực ra không cần dẹp bỏ, đèn và phòng đều tự tiêu tan. Thử hỏi: “Hồ ly tinh (ý thức phân biệt) nay đâu còn chỗ dấu thân nữa?”. Vậy cái đạo của thiền tông trước tiên dùng nghi tình hàng phục tâm, tâm quên thì trong ngoài đều quên, chẳng đóng mà tự đóng, chẳng nhiếp mà tự nhiếp, thật chẳng đúng ư...”(2)

*

Sau đây là bản Anh dịch Kinh Saṃyuktāgama 17 của Bhikkhu Bodhi. Các chữ trong ngoặc đơn () là do Nguyên Giác ghi chú để làm rõ nghĩa.

17. Discourse on Not Belonging to Oneself

Thus have I heard. At one time the Buddha was staying at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. A certain monk rose from his seat, bared his right shoulder and with palms together said to the Buddha:

“It would be well if the Blessed One would teach me the essentials of the Dharma in brief. On having heard the Dharma I shall alone and in a quiet place reflect on it with energy. Being established in it without negligence I shall reflect on that for whose sake a clansman’s son goes forth, shaving off beard and hair and putting Dharma robes on the body, out of faith going forth from the home to homelessness for the unsurpassed supreme holy life, realizing here and now that ‘birth for me has been eradicated, the holy life has been established, what had to be done has been done, I myself know that there will be no receiving of further existence.’”

Kinh Saṃyuktāgama 17: Kinh về không thuộc về chính mình

Như vầy tôi nghe. Một thời, Đức Phật ở thành Xá Vệ, trong rừng Jeta, vườn Cấp Cô Độc. Một vị tăng đứng dậy từ chỗ ngồi, trần vai bên phải, chắp tay bạch Đức Phật:

“Con xin cung thỉnh Đức Phật dạy con Pháp tinh yếu ngắn gọn. Khi nghe pháp xong, con sẽ tìm về nơi vắng lặng, ở một mình, thực hành pháp này nhiệt tâm. Con sẽ hành pháp này tinh cần, con sẽ suy nghĩ rằng vì pháp đó mà con trai của một tộc họ xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp y, với tín tâm rời nhà để sống đời không nhà vì thánh hạnh tối thượng, chứng ngộ nơi đây và bây giờ rằng “sanh đã kết thúc với con, đời sống bậc thánh đã dựng lập, những gì phải làm đã làm xong, tự con biết là sẽ không còn tái sanh nữa.”

At that time the Blessed One said to that monk: “It is well, it is well, that you speak like this: ‘Blessed One, teach me the essentials of the Dharma in brief. On having been taught the Dharma herein in brief and fully understood its meaning, I shall alone and in a quiet place reflect on it with energy. Being established in it without negligence … up to … knowing myself that there will be no receiving of further existence.’ Are you speaking like this?” The monk said to the Buddha: “It is like this, Blessed One.”

Lúc đó, Đức Phật nói với vị sư đó: “Tốt lắm, tốt lắm, khi con nói thế này, ‘Bạch Đức Phật, hãy dạy con tinh yếu của Pháp ngắn gọn. Khi được dạy Pháp ngắn gọn xong, và hiểu đầy đủ nghĩa, con sẽ về độc cư nơi vắng lặng, hành pháp này tinh tấn. Dựng lập [tự thân] trong pháp đó không lui sụt... tới khi... tự biết rằng sẽ không tái sanh nữa.’ Con nói như thế, có đúng không?” Vị tăng nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, đúng là như thế.”

The Buddha said to the monk: “Listen, listen and pay careful attention to what I will tell you. Monk, whatever things do not belong to you, they should quickly be eradicated and relinquished. Having eradicated those things will be for your benefit and welfare, for your peace for a long time.” Then the monk said to the Buddha: “I understood, Blessed One, I understood Well Gone One!”

Đức Phật nói với vị sư: “Hãy nghe, hãy nghe và hãy chú tâm vào những gì thầy sẽ nói với con. Tỳ kheo ơi, bất cứ những gì không thuộc về con, chúng nên nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Bứng gốc những thứ đó sẽ làm lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài.” Rồi vị sư đó nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, con hiểu rồi, con đã hiểu Như Lai!”

The Buddha said to the monk: “How do you understand in full the meaning of the teaching I herein spoke in brief?” The monk said to the Buddha: “Blessed One, bodily form does not belong to me, it should quickly be eradicated and relinquished. Feeling … perception … formations … consciousness does not belong to me, it should quickly be eradicated and relinquished. This will be for my benefit and welfare, for my peace for a long time. Blessed One, I thus understand in full the meaning of the teaching herein spoken in brief.”

Đức Phật nói với vị sư: “Con hiểu thế nào về nghĩa đầy đủ giáo pháp ngắn gọn thầy vừa nói?” Vị sư nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, sắc thân hình hài không thuộc về con, cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Thọ (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với cảm thọ)... tưởng (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với tri kiến về sắc, thanh, hương, vị...)... hành (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với hành, là khi tâm khởi lên lựa chọn, lượng định sau khi tri kiến đã dựng lập với tưởng)... thức (ý thức khởi lên khi 6 căn gặp 6 trần) không thuộc về con, cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ.  Như thế sẽ làm lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài. Bạch Đức Phật, con đã hiểu nghĩa đầy đủ như thế giáo pháp ngắn gọn vừa tuyên  thuyết.”

The Buddha said to the monk: “It is well, it is well, monk, that you understand in full the meaning of the teaching I herein spoke in brief. Why is that? Bodily form does not belong to you, it should quickly be eradicated and relinquished. In the same way feeling … perception … formations … consciousness does not belong to you, it should quickly be eradicated and relinquished. Having eradicated and relinquished it will be for your benefit and welfare, for your peace for a long time.

Đức Phật nói với vị sư: “Tốt lắm, tốt lắm, tỳ kheo, rằng con đã hiểu đầy đủ nghĩa giáo pháp thầy nói ngắn gọn. Sao lại như thế? Sắc thân hình hài không thuộc về con, nó cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Tương tự, thọ... tưởng... hành... thức không thuộc về con, nó cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Bứng gốc và buông bỏ nó, sẽ là lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài.

Then, on hearing what the Buddha had said, the mind of that monk was greatly delighted. He paid homage to the Buddha and withdrew. Practising alone in a quiet place with diligence he was established in being without negligence. Having practiced with diligence and being established in being without negligence he was able to reflect on that for the sake of what a clansman’s son goes forth, shaving off beard and hair and putting Dharma robes on the body, out of right faith going forth to homelessness … up to … he himself knew that there will be no receiving of further existence.’ Then that monk became an arahant, attaining liberation of the mind. (3)

Rồi thì, khi nghe Đức Phật nói xong, tâm của vị sư đó rất mực hoan hỷ. Vị sư đảnh lễ Đức Phật và lui ra. Thực hành đơn độc trong nơi vắng vẻ, với tinh tấn, vị sư an lập trong pháp này không biếng trễ. Thực hành với tinh tấn, và an lập trong pháp này không biếng trễ, vị sư chiêm nghiệm về những gì mà đứa con trai của gia tộc xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp y, tín tâm sống hạnh không nhà... tới khi... chính vị sư này biết rằng sẽ không còn nhận thân sau nào nữa.’ Rồi thì, vị sư đó trở thành một A La Hán, thành tụu giải thoát tâm.


Nguyên Giác

(1) Xem: http://thuvienhoasen.org/a14958/kho-bau-nha-thien

(2) Xem: http://www.tosuthien.com/kinh-sach/tham-thien-pho-thuyet/tham-thien-pho-thuyet-quyen-thuong/10-luc-can-kho-nhiep

(3) Xem: https://suttacentral.net/en/sa17

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33131)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6520)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11240)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12159)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12230)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12781)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34712)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9829)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52235)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10723)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10492)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10445)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16231)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21809)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9594)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7101)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10370)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12714)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12760)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16206)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16507)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13836)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16559)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12096)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13785)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14302)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16281)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14326)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16186)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12682)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12061)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11784)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15643)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11495)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14011)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11995)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12608)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14973)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11943)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13106)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14511)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20654)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13187)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10925)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20670)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14331)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20341)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17626)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13999)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31843)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12004)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant