Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thuật Ngữ

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10670)
Thuật Ngữ

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN PHỤ LỤC
 

THUẬT NGỮ

Akshobhya (TT : My-kyoš-pa, “Bất Động”). Một trong năm vị Phật Thiền, năm vị đứng đầu của năm gia đình Phật. Ngài tượng trưng các uẩn đã được thanh tịnh hoàn toàn. Akshobhya màu xanh, tiêu biểu cho thức uẩn đã được thanh tịnh hoàn toàn, và là chúa tể của gia đình kim cương.

ấn (mudra). Nghĩa đen, dấu ấn, biểu tượng. Một cử chỉ tượng trưng của bàn tay, có thần lực không khác với một thần chú. Một phối ngẫu mật thừa.

Ba la mật thừa (Paramitayana). Thừa Hoàn Thiện, Thừa Ba la mật ; một trong hai phần của Đại thừa. Đây là con đường tiệm tiến đến giác ngộ trải qua thực hành sáu ba la mật, qua mười địa bồ tát, trong vô số kiếp tái sanh trong sanh tử luân hồilợi lạc cho tất cả chúng sanh.

bodhicitta (bồ đề tâm). Quyết định vị tha đạt đến giác ngộmục đích duy nhất là làm cho tất cả chúng sanh giác ngộ.

bốn loại tantra. Sự phân chia tantra thành kriya (hành động), carya (thực hiện), yoga và anuttara yoga (yoga tối thượng).

cái thấy nhị nguyên. Cái thấy vô minh đặc trưng của tâm thức không giác ngộ trong đó mọi sự được quan niệm một cách sai lầm là có sự tự hiện hữu cụ thể. Với một cái nhìn như vậy, hình tướng xuất hiện của một đối tượng bị trộn lẫn với hình ảnh sai lầm của sự hiện hữu độc lập hay tự hữu của nó, bởi thế dẫn đến những cái thấy nhị nguyên hơn nữa về chủ thể và đối tượng, ta và cái khác, đây và kia…

chakra (luân xa). Bánh xe năng lực. Một điểm tập trung năng lực trên kinh mạch trung ương (shushuma) mà sự tập trung của người ta hướng đến, đặc biệt trong giai đoạn thành tựu của tantra yoga vô thượng. Những luân xa chính yếu là đỉnh đầu, yết hầu, trái tim, rốn và bí mật.

chu-len. Nghĩa đen, “lấy tinh túy.” Những viên thuốc chu-len được làm bằng những chất liệu tinh túy ; chỉ dùng một ít viên mỗi ngày, những thiền giả thành tựu có thể duy trì nhập thất hàng tháng hay hàng năm mà không phải dựa vào thức ăn thường.

chủng tử tự. Trong những quán tưởng mật thừa, một chữ tiếng Sanskrit khởi lên từ tánh Không và từ chữ ấy hóa thần thiền định khởi lên tiếp theo. Một chữ đơn đại diện toàn bộ thần chú của một hóa thần.

con đường thứ bậc (TT : lam-rim). Một trình bày những giáo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni theo một hình thức thích hợp tu hành từng bước một cho một người đệ tử. Lam-rim được lập thành trước tiên bởi đại đạo sư Ấn Độ Atisha (Dipankara Shrijnana 982-1055) khi ngài đến Tây Tạng vào năm 1042.

cúng dường bên trong (TT : nang-choš). Một lễ cúng dường mật thừa mà nền tảng để chuyển hóa của nó là năm uẩn của người ta được quán tưởng là năm món thịt và năm thứ cam lồ. Khi thần chú cúng dường bên trong tương ứng với một hóa thần riêng biệt được trì tụng (ví dụ trong những thực hành liên hệ với Heruka thì thần chú là OM KHANDA ROHI HUM HUM PHAT), nền tảng được tịnh hóa, chuyển hóa và làm trang nghiêm bằng thần chú, ấn và tập trung. Sự hỗ trợ bên ngoài của thiền định này thường là một viên thuốc cúng dường bên trong được ban phước (nang-choš ril-bu) hòa tan trong trà đen hay rượu.

daka (Skt : kha-dro). Nghĩa đen, một “người đi trên trời.” Một sinh thể nam giúp cho khởi sanh năng lực phúc lạc trong một hành giả mật thừa lão luyện.

dakini (Skt : kha-dro-ma). Nghĩa đen, một “người nữ đi trên trời.” Một sinh thể nữ giúp đỡ làm cho khởi sanh năng lực phúc lạc trong một hành giả mật thừa lão luyện.

Dorje Khadro (Skt : Vajradaka). Một hóa thần tác động để tịnh hóa những xấu xa tiêu cực qua lễ puja lửa đặc biệt của ngài.

Geluk. Dòng phái Đức Hạnh. Dòng phái của Phật giáo Tây Tạng do Lama Tsong Khapa và các đệ tử của ngài sáng lập vào đầu thế kỷ mười lăm.

giai đoạn phát sanh (TT : kye-rim). Giai đoạn đầu trong hai giai đoạn của tantra yoga tối thượng, trong đó người ta trau dồi hình tướng rõ ràng, trong sáng và kiêu hãnh thiêng liêng của hóa thần thiền định đã chọn của mình.

giai đoạn thành tựu hay giai đoạn hoàn tất (TT : dzok-rim). Giai đoạn thứ hai của hai giai đoạn thuộc tantra yoga tối thượng, trong đó đạt được sự kiểm soát trên thân kim cương qua những thực hành như lửa nội nhiệt.

giác ngộ (Skt : bodhi). Thức tỉnh hoàn toàn ; Phật tánh. Mục tiêu tối hậu của thực hành Phật giáo, đạt được khi tất cả mọi giới hạn ngăn che đã được gỡ bỏ khỏi tâm thức và tất cả mọi tiềm năng tích cực tốt đẹp đã được thực hiện. Nó là một trạng thái đặc trưng bởi lòng bi, thiện xảotrí huệ đều vô giới hạn.

giọt, hạt. Một bộ phận cấu thành của thân kim cương được dùng trong sự phát sanh đại lạc. Trong hai loại, vào khi thụ thai, những giọt đỏ được nhận từ mẹ và những giọt trắng từ cha mình.

guru (TT : lama). Một vị thầy, một người hướng dẫn tâm linh. Người chỉ cho đệ tử con đường đến giải thoátgiác ngộ. Trong mật thừa, vị thầy được xem là không tách lìa với hóa thần thiền địnhTam Bảo.

guru yoga. Sự thực hành căn bản của Mật thừa, nhờ đó guru của người ta được thấy là đồng nhất với chư Phật, với hóa thần thiền định của cá nhân mình, và với bản tánh tinh túy của tâm thức mình.

Heruka Chakrasamvara (TT : Korlo Dem-chog). Hóa thần thiền định nam trong loại tantra “Mẹ” của tantra yoga tối thượng. Ngài là hóa thần chính yếu nối kết với sự thực hành Heruka Vajrasattva và là yi-dam (hóa thần thiền định bổn tôn) của Lama Yeshe.

kapala (TT : toš-pa). Chén bằng sọ người, chẳng hạn cái chén bằng sọ Yum Dorje Nyem-ma cầm.

kiêu hãnh thiêng liêng. Sự tự tin mạnh mẽ rằng người ta đã hoàn thành trạng thái của một hóa thần thiền định đặc biệt.

kim cương (Skt : vajra ; TT : dorje). Vũ khí thần diệu của vị trời Indra (Đế Thích) làm bằng kim loại rất nhọn và cứng ; có tính như kim cương. Một sấm sét. Một dụng cụ mật thừa tượng trưng phương tiện (đại bi phúc lạc), cầm trong bàn tay phải (phía thuộc về nam), thường phối hợp với một cái chuông, tượng trưng cho trí huệ và được cầm trong bàn tay trái (phía thuộc nữ).

Kim Cương thừa (Vajrayana). Thừa kim cương ; cái thứ hai của hai con đường Đại thừa. Cũng được gọi là Tantrayana (Mật thừa) hay Mantrayana (Mật chú thừa). Đây là thừa nhanh nhất của Phật giáo, vì nó cho phép những hành giả đạt đến giác ngộ trong một đời.

kinh mạch (Skt : nadi). Một bộ phận cấu thành của thân kim cương qua đó năng lực những khí và giọt tuôn chảy. Kinh mạch trung ương, phải, trái là ba kinh mạch chính. Tổng số có 72.000 kinh mạch tất cả.

kundalini. Năng lực phúc lạc ngủ trong thân xác vật chất, khởi lên qua thực hành mật thừa và dùng để làm phát sinh sự quán chiếu thấu suốt vào bản tánh chân thật của thực tại.

lòng bi (Skt : karuna). Ước muốn cho tất cả chúng sanh xa lìa khỏi khổ đau tâm thứcvật chất của họ. Một tiền đề cho sự phát triển Bồ đề tâm. Lòng bi được tượng trưng bởi vị hóa thần để thiền địnhQuán Thế Âm.

mahamudra (TT : chag-chen). Cái ấn vĩ đại, đại ấn. Một hệ thống sâu xa của thiền định về tâm thứcbản tánh tối hậu của thực tại.

mạn đà la (TT : khyil-khor). Một đồ hình tròn tượng trưng cho toàn bộ vũ trụ. Chỗ ở của một hóa thần thiền định.

niết bàn (nirvana ; TT : thar-pa). Trạng thái giải thoát hoàn toàn khỏi sanh tử, mục tiêu của một hành giả tìm kiếm sự tự do khỏi khổ đau. “Niết bàn thấp hơn” thường được dùng để ám chỉ trạng thái giải thoát này, trong khi “niết bàn cao hơn” ám chỉ sự đạt đến tối thượng của giác ngộ hoàn toàn hay Phật tánh.

ngošn-dro. Những thực hành sơ bộ trong mọi trường phái Phật giáo Tây Tạng, thường được làm 100.000 lần mỗi thứ. Bốn cái chính yếu là tụng đọc quy y, cúng dường mạn đà la, lễ lạy và trì tụng thần chú Vajrasattva. Truyền thống Geluk thêm năm cái nữa : guru yoga, cúng chén nước, thiền định tịnh hóa Damtsig Dorje, làm ra những tsa-tsa (những hình tượng thiêng liêng cỡ nhỏ, thường bằng đất sét), và lễ cúng Dorje Khadro bằng lửa (jin-sek).

nhập môn. Sự trao truyền nhận được từ một vị thầy mật thừa chấp nhận cho đệ tử đi vào những thực hành về một hóa thần thiền định riêng biệt. Nó cũng được ám chỉ như là một quán đảnh truyền pháp.

nội hỏa (TT : tum-mo). Năng lực trú ngụ tại luân xa rốn, khởi lên trong giai đoạn thành tựu của tantra yoga tối thượng và được dùng để đem năng lực khí vào kinh mạch trung ương. Nó cũng được gọi là nội nhiệt hay nhiệt tâm linh.

Pháp thân. “Thân chân lý.” Tâm thức của một bậc giác ngộ, thoát khỏi tất cả che ám, thường trụ trong tri giác trực tiếp về tánh Không trong khi đồng thời hiểu biết tất cả hiện tượng. Một trong ba thân của một đức Phật (hai thân kia là Báo thânHóa thân).

puja. Nghĩa đen, “cúng dường.” Từ này thường được dùng thoáng rộng, như “chúng ta hãy làm một puja,” để ám chỉ sự cử hành một nghi lễ, như Guru Puja (Cúng dường cho một Đạo sư) hay tụng đọc một sadhana, như sadhana Heruka Vajrasattva trong cuốn sách này.

sadhana. Phương pháp để thành tựu ; những giáo huấn từng bước để thực hành những thiền định liên hệ với một hóa thần thiền định riêng biệt.

samaya (TT : dam-tsig). Lời danh dự thiêng liêng ; những cam kết và thệ nguyện của một đệ tử vào lễ nhập môn nguyện giữ gìn những những thệ nguyện mật thừa trong đời sống hay nguyện thực hiện vài thực hành liên hệ với hóa thần bổn tôn, như là sự tụng đọc sadhana mỗi ngày hay cúng lễ Guru Puja vào ngày mười và hai mươi lăm mỗi tháng theo lịch Tây Tạng.

shi-dak. Vị chúa đất ; vị sở hữu một nơi chốn. Phật giáo dạy rằng mỗi nơi chốn nối kết với một chúng sanh xem như sở hữu nơi chốn đó. Những đồ cúng được dâng cúng cho vị ấy để thỉnh xin sự sử dụng tạm thời nơi chốn ấy để làm việc đạo, như nhập thất ẩn cư.

shushuma (hay avadhuti ; TT : tsa uma). Kinh mạch trung ương, hay nadi, nó chạy từ đỉnh đầu đến luân xa bí mật. Nó là kinh mạch năng lực chính yếu của thân kim cương, được quán tưởng như một ống rỗng bằng ánh sáng ở trước xương sống (xem chương 3).

tantra (TT : gyušd). Nghĩa đen, tràng chuỗi hay sự tương tục. Những bản văn của những giáo lý mật chú của Phật giáo ; thường dùng để ám chỉ chính những giáo lý ấy.

tantra yoga tối thượng. Phần thứ tư và tối cao của thực hành Mật thừa, gồm hai giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu. Qua sự thực hành này, người ta có thể đạt đến giác ngộ viên mãn trong một đời.

tánh Không (sunyata). Sự vắng mặt của tất cả mọi ý niệm sai lầm về những sự vật hiện hữu ; đặc biệt, sự không có sự tự hiện hữu độc lập bên ngoài, tự hữu của những hiện tượng (vô tự tánh). Thường được dịch là tánh Không.

tập trung nhất niệm (samadhi). Một trạng thái nhập định sâu xa, tập trung nhất niệm vào bản tánh thật sự của những sự vật, thoát khỏi tư tưởng diễn dịch lan man và những ý niệm nhị nguyên.

thần chú (mantra). Nghĩa đen là sự bảo vệ cho tâm thức. Những thần chú là những chữ Sanskrit được trì tụng phối hợp với sự thực hành về một hóa thần thiền định riêng biệt. Những chữ, âm ấy hiện thân những phẩm tính của vị hóa thần.

Thệ nguyện. Những điều luật được nhận trên nền tảng quy y trong mọi cấp bậc của thực hành Phật giáo. Những giới luật pratimoksha (những thệ nguyện để giải thoát cho cá nhân) là những thệ nguyện chính trong truyền thống Tiểu thừa và được nhận giữ bởi tăng, ni và cư sĩ ; chúng là nền tảng cho những thệ nguyện khác. Những giới luật Bồ tát và mật thừa là những thệ nguyện chính trong Đại thừa.

thiền định quán chiếu (Pali : vipassana). Thiền định chính yếu được dạy trong truyền thống Therevada và được đặt nền trên những giáo lý của Phật về bốn nền tảng của chánh niệm (tứ niệm xứ). Đôi khi nó được gọi là thiền định chánh niệm. Trong Đại thừa, vipasyana (Skt) có một ý nghĩa khác, là sự tham cứu về và làm quen với cách thức thật sự trong đó những sự vật hiện hữu và thường được dùng để khai triển trí huệ về tánh Không.

torma. Một loại bánh cúng được dùng trong những lễ mật thừa. Ở Tây Tạng, những torma thường được làm bằng tsampa, nhưng những thức ăn được khác như bánh nướng… cũng đủ.

tràng hạt thần chú. Một thần chú được quán tưởng thành một tràng hạt. Những chữ của thần chú đó tượng trưng cho những hạt ; thường là xoay vòng, như trong những chữ của thần chú một trăm âm được an vị vòng quanh viền dĩa mặt trăng.

Trung đạo (Skt : Madhyamika). Con đường giữa ; một hệ thống phân tích được sáng lập bởi Nagarjuna (Long Thọ) đặt nền trên những kinh Bát Nhã ba la mật của đức Phật Thích Ca, và được xem là sự trình bày tối cao về trí huệ tánh Không.

tsok. Nghĩa đen, nhóm họp – một nhóm họp những chất liệu để cúng và một nhóm họp những đệ tử để làm lễ cúng.

Vajradhara (TT : Dorje Chang). Vị hóa thần thiền định nam ; là hình thức qua đó Phật Thích Ca Mâu Ni phát lộ những giáo lý của mật chú thừa.

Vajrasattva (TT : Dorje Sem-po). Hóa thần thiền định nam tượng trưng cho sự thanh tịnh bổn nhiên của tất cả chư Phật. Một thực hành tịnh hóa chính yếu thuộc mật thừa để loại trừ những chướng ngại do nghiệp xấu và sự phá vỡ những thệ nguyện tạo ra.

Vajravarahi (TT : Dorje Phag-mo). Hóa thần thiền định nữ, phối ngẫu của Heruka.

Văn Thù (Skt : Manjushri). Vị hóa thần thiền định hiện thân cho trí huệ giác ngộ viên mãn.

Yamantaka (TT : Dorje Jig-je). Hóa thần thiền định nam trong loại tantra “Cha” của tantra yoga tối thượng.

Yi-dam. Nghĩa đen, “cái ràng buộc tâm thức.” Vị thần chủ yếu – hay như Lama Yeshe thường nói – được yêu chuộng nhất, của riêng mình để cho sự thực hành mật thừa. Vị hóa thần bạn có sự nối kết mạnh mẽ và chặt chẽ nhất.

NHỮNG KHAI THỊ TỪ ĐỨC LIÊN HOA SANH VỀ CON ĐƯỜNG ĐẠI TOÀN THIỆN – Padmasambhava
TRÍ HUỆĐẠI BI – Dalai Lama Thứ 14
MỘT TIA SẤM CHỚP SÁNG TRONG ĐÊM TỐI – Dalai Lama Thứ 14 1999
KHO TÀNG TÂM CỦA CÁC BẬC GIÁC NGỘ – Dilgo Khyentse
ĐẠI TOÀN THIỆN TỰ NHIÊN – Khenpo Nyoshul
CON ĐƯỜNG ĐẾN TỰ DO VÔ THƯỢNG – Dalai Lama Thứ 14
CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA – Lama Yeshe
MẬT THỪA TÂY TẠNG – Tsong Khapa và Dalai Lama Thứ 14
CON ĐƯỜNG CĂN BẢN ĐẾN GIÁC NGỘ – Chogyam Trungpa
CUỘC ĐỜI SIÊU VIỆT CỦA 16 VỊ TỔ KARMAPA TÂY TẠNG – Karma Thinley




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19673)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23931)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41175)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19659)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23941)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21731)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27475)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26523)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29282)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33143)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20167)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25724)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20884)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31260)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38507)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21398)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44211)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29783)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42131)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22112)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45687)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32068)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23934)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24343)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29221)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33875)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27652)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32097)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21031)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28825)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21531)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28000)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22046)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19442)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19806)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19209)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29126)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20593)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23619)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33141)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31811)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39587)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21528)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19355)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26328)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24789)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21728)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22348)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29104)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22537)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20452)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21221)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35260)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24533)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant