Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Phương pháp Yoga về Heruka Vajrasattva vinh quang tối thượng

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11696)
1. Phương pháp Yoga về Heruka Vajrasattva vinh quang tối thượng

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

PHƯƠNG PHÁP YOGA 

VỀ HERUKA VAJRASATTVA VINH QUANG TỐI THƯỢNG (23)

Quy y
(Đọc tụng ba lần :)

Vĩnh viễn, con quy y vào Phật, Pháp, Tăng và vào Tăng đoàn của ba thừa, những daka và dakini của yoga mật chú, những anh hùng nam và nữ, chư thiên nam nữ, chư bồ tátđặc biệt vào guru của con.

Phát Bồ đề tâm
(Đọc tụng ba lần :)

Tôi phải trở thành Heruka để dẫn dắt tất cả chúng sanh đến trạng thái Heruka-tánh cao cả.
(Thiền định cái bình : Tập thở chín vòng)

Quán tưởng Heruka Vajrasattva

Từ cái không, khoảng một tấc rưỡi trên đỉnh đầu tôi, xuất hiện chủng tự PAM, nó chuyển hóa thành một hoa sen ngàn cánh. Trên đỉnh hoa sen xuất hiện chủng tự AH, nó chuyển hóa thành một dĩa mặt trăng. Trong trung tâm dĩa mặt trăngchủng tự HUM. Đột nhiên, chữ HUM chuyển hóa thành một chày kim cương năm chỉa với một chữ HUM ở trung tâm. Những ánh sáng rực rỡ phóng ra từ chữ HUM và chày kim cương, đến khắp mười phươnghoàn thành hai mục đích. Toàn vũ trụ tan thành ánh sáng. Rồi ánh sáng này trở lại và thu vào trong chữ HUM trong chày kim cương. Chữ HUM và chày kim cương cũng tan vào ánh sáng và chuyển hóa thành Heruka Vajrasattva.

Vajrasattva màu trắng. Ngài có một mặt và hai cánh tay. Ngài cầm một chày kim cương trong tay phải và một cái chuông trong tay trái. Ngài ngồi trong tư thế hoa sen toàn phần với hai tay trong ấn ôm choàng. Phối ngẫu của ngài, Dorje Nyem-ma, ôm ngài, hai chân bà bao vòng thân ngài. Bà màu trắng, có một mặt và hai cánh tay. Bà cầm một con dao cong trong tay phải và một chén sọ người trong tay trái.

Cả hai vị mặc áo lụa của trời và trang sức với châu báu. (Cả hai có những chủng tự) OM ở luân xa đỉnh đầu, AH ở luân xa cổ họng và HUM ở trái tim. Ánh sáng chói rực từ chữ HUM ở tim phóng ra, cầu thỉnh năng lực trí huệ thiêng liêng tối thượng của tất cả Như Lai.

Dâng cúng Heruka Vajrasattva

OM KHANDA ROHI HUM HUM PHAT (Rửa sạch đồ cúng)
OM SVABHAVA SHUDDAH SARVA DHARMA SVABHAVA SHUDDHO HAM (Tịnh hóa chúng)

Tất cả trống không. Một chủng tự AH xuất hiện từ cái không. Nó biến thành một kapala lớn màu trắng chứa năm thứ thịt và năm cam lồ. Chúng tan thành một đại dương năng lực cam lồ của trí huệ thiêng liêng siêu việt.
(Chú nguyện những đồ cúng bằng cách đọc ba lần :)

OM AH HUM HA HO HRI
(Dâng cúng chúng với :)

OM VAJRASATTVA ARGHAM PRATICCHA HUM SVAHA
(OM Vajrasattva, xin hãy nhận nước chúc mừng HUM SVAHA)

tương tự với PADYAM (nước rửa chân), PUSHPE (hoa), DHUPE (hương, nhang), ALOKE (ánh sáng), GANDHE (hương) NAIVEDYA (thức ăn), và SHABDA (âm thanh, nhạc) thay vào chỗ ARGHAM.

JAH HUM BAM HOH
Trở thành bất nhị.
Quán đảnh bởi chư Phật của năm bộ

Lần nữa ánh sáng rực rỡ phóng từ chữ HUM ở trái tim thiêng liêng, cầu thỉnh tất cả hóa thần quán đảnh của năm bộ.
(Làm những dâng cúng cho các ngài với :)
OM PANCHA KULA SAPARIVARA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA

“Tất cả chư Như Lai, xin ban quán đảnh (Heruka Vajra-sattva) cho con.” Theo lời thỉnh cầu này. Tất cả chư Như Lai cầm lên bình quán đảnh của các ngài, đầy ắp năng lực cam lồ của trí huệ thiêng liêng siêu việt, và cam lồ bắt đầu chảy xuống. Khi thần chú OM SARVA TATHAGATA ABHISHEKATA SAMAYA SHRIYE HUM được đọc, sự quán đảnh được ban cho.

Thân thể thiêng liêng của trí huệ hoàn thiện tuyệt đối, Heruka Vajrasattva, hoàn toàn đầy ắp năng lực cam lồ của trí huệ đại lạc siêu việt. Một số cam lồ tràn ra và biến thành Akshobhya, vị này trang hoàng cho đỉnh đầu ngài.

Chủng tự HUM ở trung tâm dĩa mặt trăng ở trái tim thiêng liêng, bao vòng quanh bởi thần chú một trăm âm (ngược chiều kim đồng hồ quanh viền dĩa mặt trăng).
Những dâng cúng cho Heruka Vajrasattva
OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA
OM VAJRASATTVA OM AH HUM
Tán than

Con đảnh lễ trí huệ thiêng liêng bất nhị, đồ trang sức châu báu rực rỡ bên trong của tất cả chúng sanh là mẹ ; đại lạc tối thượng, bất biến, vĩnh cửu ; tâm trí huệ bất hoại lộng lẫy giải thoát cho tất cả chúng sanh khỏi tất cả bất thiện của thân, ngữ và tâm, đặc biệt là những thệ nguyện cam kết bị hư hỏng.

Cúng dường mạn đà la
(Tùy ý lựa chọn : mạn đà la dài)

OM VAJRA-BHUMI AH HUM ! Đất vàng quyền uy / OM VAJRA-REKHE AH HUM ! Bên ngoài, tường vách chu vi bao vòng, ở trung tâmnúi Tu Di, vua của các núi / châu phía Đông, Videha / châu phía Nam, Jambudvipa / châu phía Tây, Godaniya / châu phía Bắc, Kuru / (những lục địa phụ) Deha và Videha / (phía nam) Camara và Apara-camara / (phía tây) Shatha và Uttaraman-trin / (và phía bắc) Kuru và Kauvara / (Trong bốn châu :) núi quý báu / cây ban cho điều muốn / con bò đáp ứng nguyện vọng / mùa màng không phải canh tác / (trên tầng thứ nhất của Núi Tu Di :) Bánh xe quý báu / Ngọc quý báu / Hoàng Hậu quý báu / Tể Tướng quý báu / Voi quý báu / Ngựa quý báu / Tướng quý báu / Cái Bình của Kho Tàng vĩ đại / (trên tầng thứ hai : tám thiên nữ,) Nữ Thần của sự Duyên dáng / Nữ Thần Tràng Hoa / Nữ Thần Bài Ca / Nữ Thần Khiêu Vũ / Nữ Thần Hoa / Nữ Thần Hương / Nữ Thần Đèn / Nữ Thần Hương Thơm / (trên tầng thứ ba :) mặt trời / mặt trăng / lọng báu / cờ phướn chiến thắng ở mọi góc / Ở trung tâm, những giàu có hoàn hảo nhất của chư thiênloài người, không thiếu sót thứ gì, thanh tịnhhân hoan / Con dâng cúng tất cả những thứ ấy như là một cõi Phật đến bổn sư và các guru truyền dòng rất đỗi từ ái, vinh quang và linh thánh / và đặc biệt đến Guru Vajrasattva bổn tôn // Xin hãy chấp nhận chúng với lòng bi mẫnchúng sanh luân lạc. Đã nhận chúng rồi, xin ban sự cảm ứng của các ngài cho con và tất cả chúng sanh luân lạc là mẹ khắp cả không gian từ lòng đại bi của các ngài.

(Tùy ý lựa chọn : mạn đà la ngắn)
Đất này tẩm ướp hương thơm, rải rắc bằng hoa,
Trang hoàng với núi Tu Di, bốn châu, mặt trờimặt trăng,
Con dâng cúng trong quán tưởng như cõi chư Phật.
Nguyện tất cả chúng sanh thọ hưởng tịnh độ này như vậy.

Mạn đà la bí mật

Chánh kiến về tánh Không là một với trí huệ của đại lạc. Trí huệ này chuyển hóa thành núi Tu Di, mặt trời, mặt trăng, và mọi hiện tượng khác trong vũ trụ. Con dâng cúng tất cả những thứ tráng lệ cho ngài, đại dương của đại từ, bậc giải thoátgiải thoát cho muôn loài.

Mạn đà la bên trong

Xin ban phước cho con và tất cả chúng sanh để được giải thoát tức thời khỏi ba độc, để con dâng cúng không mảy may ngần ngại hay bám luyến tất cả những đối tượng của tham, sân, si của con ; bạn bè, kẻ thù, và người xa lạ ; và thân thể con và tất cả tài sản của con. Xin chấp nhận tất cả những thứ này.

IDAM GURU RATNA MANDALAKAM NIRYATAYAMI
Tịnh hóa

“Thế Tôn Vajrasattva, xin tịnh hóa mọi bất thiện và những thệ nguyện bị hư hoại của chính con và tất cả chúng sanh.”

Vì lời thỉnh cầu này, ánh sáng rực rỡ phóng ra từ chuỗi thần chú và chữ HUM ở trái tim thiêng liêng. Nó tịnh hóa mọi bất thiện và che chướng của tất cả chúng sanhtrở thành một đồ dâng cúng cho tất cả chư Phật chư Bồ tát. Tinh túy của những phẩm tính toàn thiện của thân, ngữ, tâm linh thánh của các ngài trở lại thành ánh sáng, ánh sáng này tan vào chữ HUM và chuỗi thần chú.

(Từ chữ HUM và chuỗi thần chú) một dòng năng lực cam lồ lạc phúc màu trắng bắt đầu chảy xuống qua những luân xa của cặp đôi thiêng liêng. Nó chảy qua luân xa của sự kết hợpđi vào luân xa đỉnh đầu của tôi. Dòng cam lồ của trí huệ siêu việt này tràn đầy toàn thân tôi, phá hủy mọi bất thiện và che chướng của thân, ngữ, tâm của tôi. Những cái ấy hoàn toàn được tịnh hóa.

Trì tụng thần chú

OM VAJRA HERUKA SAMAYAM ANUPALAYA. HERUKA TENOPATISHTHA. DRIDHO ME BHAVA, SUTOSHYO ME BHAVA, SUPOSHYO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVA SIDDHIM ME PRAYACCHA, SARVA KARMA SUCHA ME CHITTAM SHREYAH KURU, HUM ! HA HA HA HA HOH ! BHAGAVAN VAJRA HERUKA MA ME MUNCHA, HERUKA BHAVA MAHA SAMAYA SATTVA AH HUM PHAT !

Những dâng cúng và tán than

OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA
OM VAJRASATTVA OM AH HUM

Trí huệ bất nhị thiêng liêng, châu báu trang sức lộng lẫy bên trong của tất cả chúng sanh hữu tình là mẹ ; đại lạc tối thượng bất biến thường tồn ; tâm trí huệ tráng lệ bất hoại giải thoát cho tất cả chúng sanh khỏi mọi bất thiện của thân, ngữ, tâm, đặc biệt cho những thệ nguyện và cam kết bị hư hoại : con xin đảnh lễ ngài.

Quy y Heruka Vajrasattva

Bởi vô minhmê lầm, con đã làm hư hoại những cam kết của con. Hỡi Guru thiêng liêng, bậc có thần lực để giải thoát cho con, bậc đạo sư bên trong của con, bậc cầm giữ kim cương, bậc mà tinh túyđại bi vô ngại, Đấng của tất cả chúng sanh luân lạc, con quy y ngài.

Hòa tan

Vajrasattva nói, “Thiện nam tử (hay thiện nữ nhân), những bất thiện và che chướng và những cam kết bị hư hoại của con đã được tẩy sạch và tịnh hóa.” Bấy giờ ngài hòa tan vào trong tôi. Ba cửa (thân, ngữ, tâm) của tôi trở thành một, không tách lìa với thân, ngữ, tâm thiêng liêng của Vajrasattva.

Hồi hướng

Nhờ công đức này, nguyện tôi nhanh chóng trở thành Heruka Vajrasattva và dẫn dắt mỗi chúng sanh vào cảnh giới giác ngộ thiêng liêng.

Lời bạt

Vì sự thỉnh cầu khuyến khích từ nhiều người Tây phương thông tuệ cần đến một bản văn sadhana thực hành Vajrasattva để tẩy trừ những chướng ngại và làm lợi cho những giai đoạn của con đường và là một sơ khởi cho thiền định về hai giai đoạn (của tantra yoga tối thượng) một người được gọi là Muni Jnana (Thubten Yeshe) đã viết bản văn này như một đoạn trừ khẩn cấp mê lầm, thế nên người ấy cầu xin tha thứ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19703)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41221)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19695)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23987)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27507)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26575)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20196)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25777)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31320)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21442)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29832)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45766)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23960)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27683)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28855)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21585)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19250)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20625)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28302)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33187)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21378)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39628)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21551)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19380)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24831)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22394)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23518)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35327)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant